NIÊN ĐẠI 1000 - 500 TCN
SUSHRUTA - CHA ĐẺ CỦA NGÀNH PHẪU THUẬT VÀ CUỐN SÁCH Y HỌC CỦA NGƯỜI ẤN ĐỘ
Tác giả Hồ Lê Anh Khoa
Tác giả Hoàng Hải Đăng
Trong giai đoạn Y học Tâm Linh ( Spiritual Medicine), y học thời kì cổ đại mang trong mình hình hài của của những vật thần thoại, tâm linh, cùng với những quan điểm thần bí, và các phương pháp chẩn đoán, phòng ngừa, điều trị bệnh đều cần đến cúng bái, cầu khẩn, thực hiện nghi thức thần bí. Thời gian trôi qua, nhận thức của loài người cũng tiến bộ dần và với y học cũng không tránh khỏi quy luật tất yếu này. Những thay đổi của y học cổ đại thời bấy giờ đã gọi tên nhiều vùng đất trên thế giới, có thể kể đến thời La Mã cổ đại của người Hy Lạp, Ai Cập và Lưỡng Hà cũng như ở phương Đông không thể bỏ qua vùng đất Ấn Độ huyền bí. Nếu như đầu thời La Mã cổ đại hay Ai Cập Lưỡng Hà, những ghi chép về y học, bệnh tật đã có từ rất sớm thì nền văn minh của người Ấn Độ chỉ thực sự nổi bật với những luận chương y học bi tráng hào hùng vào thời điểm 2000 năm trước Công nguyên (TCN) trở đi khi mà những nhân vật nổi tiếng đã biết cách ghi dấu ấn của bản thân qua sự học hỏi, thay đổi đáng ngạc nhiên từ tư duy đến nhận thức.
Jean Filliozat (1906-1982), một bác sĩ người Pháp thông thạo tiếng Phạn, tiếng Tây Tạng và tiếng Tamil và là tác giả của những công trình quan trọng về lịch sử y học Ấn Độ đã viết:
“Y học Ấn Độ đã đóng vai trò ở châu Á giống như Y học Hy Lạp ở phương Tây, vì nó đã lan rộng đến Đông Dương, Indonesia, Tây Tạng, Trung Á và đến tận Nhật Bản, giống hệt như Y học Hy Lạp đã làm ở Châu Âu và Ả Rập…"
Hệ thống y tế của người Ấn Độ cũng lâu đời như nền văn minh của họ và đã đặt nền móng cho các quốc gia khác trên thế giới. Trong Thời kỳ sử thi (2500 đến 1400 trước Công nguyên), nền văn minh Ấn Độ tiếp tục đạt được tất cả những đặc điểm tuyệt vời về kiến thức và trí tuệ và mỗi triều đình đều có một thầy thuốc có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của nhà vua. Một số bác sĩ phẫu thuật đã thực hiện các ca phẫu thuật lớn trên chiến trường và các trường phái triết học cũng có mặt ở đó để dạy cho sinh viên y khoa và phẫu thuật. v.v. Một công trình đồ sộ đáng kinh ngạc về phẫu thuật và những quan điểm mới mẻ đã được Sushruta trình bày trong cuốn Y học của nhân loại “ Sushruta Samhita”. Khi có cơ hội tiếp cận được cuốn chuyên luận thời cổ đại này, con người hiện nay không khỏi ngạc nhiên về sự tỉ mỉ, trau chuốt và tiến bộ đáng kinh ngạc về vốn hiểu biết, nhận thức cũng như y thuật ngoại khoa thời bấy giờ. Chính bản thân Sushruta – người được xem là cha đẻ của ngành phẫu thuật, có lẽ cũng không nhận thức được những công trình nghiên cứu, tiếp nhận tri thức của mình sẽ có thể ảnh hưởng đến nền y học tương lai thế nào.
Sushruta - vị bác sĩ ngoại khoa đầu tiên của Hindu cổ đại
Acharya Sushruta là một nhân vật có thật sống cách đây hơn 2000 năm tại thành phố cổ Kashi, ngày nay được gọi là Varanasi hoặc Banaras ở phía bắc Ấn Độ. Varanasi, bên bờ sông Hằng, là một trong những nơi linh thiêng nhất ở Ấn Độ và cũng là quê hương của Phật giáo.
Sushruta được tôn kính theo truyền thống Ấn Độ giáo là hậu duệ của Dhanvantari, vị thần y học trong thần thoại hoặc là người đã nhận được kiến thức từ Dhanvantari ở Varanasi.[3] Acharya Sushruta không đề cập đến ngày sinh cũng như nơi ông sinh ra, điều này đem lại sự tò mò từ giới lịch sử và cả những người theo Ayurveda. [8]
Nếu như Ayurveda là một trong những ngành y học lâu đời nhất thì Sushruta Samhita là một trong những chuyên luận y học cổ đại quan trọng nhất và là một trong những văn bản cơ bản của truyền thống y học ở Ấn Độ cùng với Charak Samhita.
Nếu lịch sử khoa học được truy ngược về nguồn gốc của nó, thì có lẽ nó bắt đầu từ một kỷ nguyên không được đánh dấu của thời cổ đại. Mặc dù ngày nay khoa học về y học và phẫu thuật đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhưng nhiều kỹ thuật được thực hành ngày nay vẫn bắt nguồn từ thực tiễn của các học giả Ấn Độ cổ đại. Sushruta coi phẫu thuật là nhánh đầu tiên và quan trọng nhất của y học và tuyên bố rằng phẫu thuật có ưu điểm vượt trội là tạo ra hiệu quả tức thời bằng các dụng cụ và thiết bị phẫu thuật và do đó là giá trị cao nhất trong tất cả các mật điển y học. Nó là cội nguồn vĩnh cửu của lòng mộ đạo vô hạn, mang đến danh tiếng và mở ra cánh cổng thiên đàng cho những người sùng kính nó. Nó kéo dài thời gian tồn tại của con người trên trái đất và giúp con người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình và có năng lực tốt trong cuộc sống.
Từ thực hành trên cơ thể người - tư duy đi trước xã hội…
Quan điểm và kiến thức của Sushruta về ngoại khoa thời bấy giờ vô cùng uyên bác, nó còn đặc biệt hơn là trong bối cảnh thời kì Ấn Độ cổ đại thời bấy giờ. Vào thời điểm 600 năm TCN, Ấn Độ cổ đại vẫn mang trong mình triết lý giáo điều, với luật lệ nghiêm ngặt, mà trong đó là sự tôn kính cơ thể con người đến tuyệt đối. Luật Hindu (Shastras) quy định rằng cơ thế của người chết không thể bị dao xâm phạm và nếu người chết lớn hơn 2 tuổi, người đó phải được hỏa táng trong tình trạng hiện tại, không có vết sẹo, không tì vết.[7] Vậy sushruta có thể nghiệm ra những triết lý, phương pháp phẫu thuật từ đâu ra và làm thế nào có thể “qua mắt” được những lễ nghi, phong tục lúc bấy giờ, tránh cho ông khỏi sự “tội lỗi” cũng như tạo ra môi trường, điều kiện phù hợp cho nghiên cứu. Có thể câu trả lời sẽ không được tìm ra bởi vì tới tận bây giờ vẫn chưa có một áng văn chương, tự truyện hay nhật kí từ ông hay những người kế cận ông được tìm thấy ngoại trừ kho tàng đồ sộ Sushruta Samhita. Chuyên luận cổ này chỉ tập trung đúng chuyên môn y học thời bấy giờ, không có một ghi chép lại quá trình làm việc của ông, nên những học giả từ xa xưa đến nay vẫn chỉ dựa vào những nội dung trong đó mà suy luận và đặt ra nhiều giả thiết.[6]
Sushruta luôn vững chắc với lập trường: việc mổ xẻ và thăm dò trên xác người là điều kiện tiên quyết để có được kiến thức y học và phẫu thuật. Ông đã dành trọn một phần hoàn chỉnh về giải phẫu trong quyển Sarira Sthana với 10 chương nghiên cứu chi tiết về giải phẫu người. Thông qua Sarira Sthana cho thấy rất ít kiến thức về giải phẫu có được từ việc mổ xẻ động vật, thay vào đó là những bài học từ chính con người đã ra đi, bất chấp những hạn chế về tôn giáo. Sushruta - cũng là người đầu tiên thiết lập phương thức bảo quản và chuẩn bị thi thể trước khi mổ xẻ. Nếu như bây giờ những cơ thể sau khi đã ra đi sẽ được ngâm trọn vẹn trong một loại hóa chất có tên formaldehit thì ở đây các vị y thuật sẽ để thi thể trong dòng nước chảy và để nó tự phân hủy. Cứ từng lớp một bị phân hủy sẽ bộc lộ ra những cơ quan khác nhau mà ta sẽ thấy và tiến hành nghiên cứu cấu trúc theo từng giai đoạn đó. Trong Sarira - Sthana còn đề cập thêm về việc cách chọn một tử thi là nên có đầy đủ tất cả các bộ phận, không phải là người chết do ngộ độc, không mắc những căn bệnh lâu năm, và chưa tới 100 tuổi. Sau chọn lọc, trước khi ngâm vào nước, các chất có trong ruột phải được loại bỏ. Thân xác được bao bọc bởi 1 số loại cây bụi/ cỏ rồi nhốt trong lồng, sau đó treo lơ lửng ngập trong nước và quá trình nghiên cứu chi tiết một thân xác bắt đầu. Nhìn vào sự chi tiết, bài bản này, có lẽ ta không nhận ra đây là thời đại của những yếu tố tâm linh, những triết lí mang tính thần bí, không có cơ sở khoa học trị, Sushruta và những nhà y học bấy giờ đã cho thấy được tư duy của một nhà khoa học đích thực trong xã hội cổ đại.
Giảng dạy giải phẫu
“Một sinh viên phẫu thuật nên tìm hiểu về cơ thể con người và các cơ quan của nó bằng cách mổ xẻ một xác chết”
|
Ông là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đề xuất rằng một sinh viên phẫu thuật nên tìm hiểu về cơ thể con người và các cơ quan của nó bằng cách mổ xẻ một xác chết. Kiến thức giải phẫu cơ thể người được dạy một cách thực tế, là bước đầu để trở thành một người phẫu thuật chuyên nghiệp. Ở trong chuyên luận Sushruta Samhita, có một đoạn bằng tiếng Phạn với nghĩa “ Những bộ phận khác nhau của cơ thể, như đã đề cập trước đó, bao gồm cả da, không thể được mô tả chính xác bởi một người không thông thạo về giải phẫu. Vì vậy, bất cứ ai mong muốn có được kiến thức kỹ lưỡng về giải phẫu nên chuẩn bị một người đã chết và quan sát cẩn thận kĩ lưỡng bằng cách mổ xẻ và kiểm tra bộ phận khác nhau của nó”. Các sinh viên mới phải học ít nhất 6 năm trước khi bắt đầu được đào tạo. Trước khi bắt đầu khóa đào tạo, các học viên phải có buổi tuyên thệ đầy long trọng. Ông đã dạy kỹ năng phẫu thuật cho học sinh của mình trên nhiều mô hình thí nghiệm khác nhau. Vết rạch trên các loại rau như dưa hấu và dưa chuột, rạch và cắt bỏ trên túi da chưa đầy bùn với mật độ khác nhau, cạo lông trên da động vật, đâm vào tĩnh mạch của động vật chết và thân sen, thăm dò trên gỗ bị sâu ăn…. Những cách thức rèn luyện kỹ năng ngoại khoa thế này vẫn tồn tại và hữu ích đến tận bây giờ, cho thấy Sushruta đã đi trước thời đại rất nhiều trong việc giảng dạy các kỹ thuật y học. Cùng với đó là tư tưởng, nguyên tắc cơ bản trở để thành những nhà ngoại khoa là phải nắm vững kiến thức giải phẫu là một quy tắc bất thành văn, triết lý trường tồn mãi không thể bác bỏ. Đến khi hành nghề y, những ai muốn hành nghề phải đạt được sự cho phép của nhà vua (chính phủ) lúc bấy giờ, tuân theo luật lệ và sự kiểm soát trong suốt quá trình hành nghề tương tự như việc đăng kí hành nghề ngày nay.
Bằng cấp của một y tá cổ xưa
Chỉ có người đó mới đủ sức chăm sóc hoặc túc trực bên giường bệnh nhân, tính tình điềm đạm, dễ mến, không nói xấu ai, mạnh mẽ, quan tâm đến yêu cầu của người bệnh, làm theo hướng dẫn của thầy thuốc một cách chỉn chu, không biết mệt mỏi.
|
…Đến phẫu thuật thời hiện đại
Trong chuyên luận cổ đại này, ông đã mô tả 60 loại nghiệp vụ để điều trị vết thương, 121 dụng cụ phẫu thuật và 300 quy trình phẫu thuật, đồng thời phân loại các ca phẫu thuật thành 8 phân loại.
Tất cả các nguyên tắc cơ bản của phẫu thuật như lập kế hoạch chính xác, cầm máu và sự hoàn hảo đều có vị trí quan trọng trong các bài viết của Sushruta về chủ đề này. Ông đã mô tả quy trình phẫu thuật bài bản, gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (Purva karma): Các thủ tục trước phẫu thuật như khám sàng lọc bệnh nhân, khai thác bệnh sử, khử trùng phòng mổ, khử trùng dụng cụ
Giai đoạn 2 (Pradhan karma): phẫu thuật với đủ 8 bước từ “việc rạch” đến “khâu vết mổ”
Giai đoạn 3 (Paschat karma): sau phẫu thuật bệnh nhân được chăm sóc như quá trình hậu phẫu tương tự ngày nay
Sushruta nhấn mạnh rằng nên ưu tiên việc điều trị bằng thuốc trước, chỉ khi thất bại thì chuyển sang phẫu thuật. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản trong quá trình điều trị bệnh nhân của y học hiện đại, mang tính kế thừa của thời kì trước. [11]
Sushruta đã mô tả việc phẫu thuật với tám quy trình: Chedya (cắt bỏ), Lekhya (cạo hoặc nạo), Vedhya (đâm, chích), Esya (thăm dò), Ahrya (sự nhổ dị vật/ cao răng), Vsraya (bài tiết, chảy máu) và Sivya (khâu vá).
Nguyên tắc gây mê
Để ca phẫu thuật thành công, Sushruta đã gây mê bằng cách sử dụng các chất có đặc tính an thần như rượu và henbane (Cannabis indica). Có một sự thú vị là trước khi tiến hành phẫu thuật, để gây mê, người bệnh sẽ có một bữa ăn thịnh soạn và uống loại rượu mạnh nếu người đó có thói quen uống rượu. Tuy nhiên trong các bệnh về đường ruột, có thai, sỏi thận, bệnh về khoang miệng, bệnh nhân được cho nhịn ăn để phục vụ tốt nhất cho việc phẫu thuật.
Nguyên tắc Shashtrakruta Vrana nêu ra tiêu chí của một vết rạch tốt, bao gồm rộng, đều, không được lồi lõm, phân chia tốt, và tránh tạo khoảng trống bên trong. Ông cũng đề xuất kiểu rạch da ở từng vị trí khác nhau, ví dụ như chân mày, má, trán, lông mi, hàm dưới, bụng và háng phải rạch theo chiều nằm ngang; rạch như hình mặt trăng tròn ở tay và chân, và bán nguyệt ở hậu môn và dương vật…Ông cũng chú ý đến việc mủ còn tồn đọng sau mổ không được dẫn lưu tốt thì có thể phải rạch thêm 1 đường hợp lí. Ngoài ra, một số nguyên tắc lành thương cũng được nhắc đến. Ông cho rằng những vết thương khó mà lành nhanh nếu còn soshas (mủ, viêm…) bên trong vết thương,
Ông đã mô tả các quy trình tái tạo khác nhau cho các loại khiếm khuyết khác nhau. Ông đã điều trị cho nhiều trường hợp Nasa Sandhan (tạo hình mũi), Oshtha Sandhan (tạo hình dái tai), Karna Sandhan (tạo hình tai). Thậm chí ngày nay, kỹ thuật tạo hình mũi do Shushruta mô tả vào năm 600 trước Công nguyên được gọi là vạt da của người Ấn Độ và ông được biết đến là người khởi xướng phẫu thuật thẩm mỹ. Không khỏi ngạc nhiên trước những kĩ năng và kiến thức y học thời đại này, tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận rằng hình thái y học vẫn mang hướng tâm linh, tôn giáo và chưa có một triết lý hay dựa vào cơ sở khoa học nào. Kể cả vậy, đây cũng là một cột mốc đáng giá cho nền y học sau này.
Ngoài ra, ông đã mô tả sáu loại chấn thương do tai nạn bao gồm tất cả các bộ phận của cơ thể. Chúng được mô tả dưới đây:
Chinna - Cắt đứt hoàn toàn một phần hoặc toàn bộ chi
Bhinna - Vết thương sâu ở vùng rỗng nào đó do vật đâm dài
Viddha Prana - Đục thủng một cấu trúc đặc
Kshata - Vết thương không đều với dấu hiệu của cả Chinna và Bhinna, tức là vết rách
Pichchita - Vết thương dập nát do ngã hoặc đòn đánh
Ghrsta - mài mòn bề mặt của da.
Ngoài ra, Sushruta đưa ra một giải nghĩa chuyên sâu và mô tả về cách điều trị 12 loại gãy xương và 06 loại trật khớp. Điều này tiếp tục gắn liền với các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình cho đến tận ngày nay. Ông đề cập đến các nguyên tắc của lực kéo, thao tác, định vị, ổn định và vật lý trị liệu sau phẫu thuật. Ông cũng là người đề ra các biện pháp kích thích mọc tóc đã rụng và loại bỏ những sợi tóc / lông không mong muốn. Ông tha thiết mong muốn các bác sĩ phẫu thuật đạt được sự chữa lành hoàn hảo, được đặc trưng bởi việc không có bất kỳ độ vênh, độ cứng, khối sưng tấy nào và màu sắc bình thường của tổn thương.
Ngày nay những kĩ thuật, cách thức cũng như tổ chức cho một cuộc mổ đã được điều chỉnh, cải cách và tiến bộ rất nhiều nhưng về cơ bản vẫn tương tự với các nguyên tắc cơ bản có trong Sushruta Samhita. Ngoài ra, Sushruta cũng đã giải thích rất chi tiết về việc băng bó: khi nào cần thực hiện, thực hiện như thế nào, thực hiện theo từng bộ phận cơ thể; những điều này vẫn còn phù hợp cho đến thời điểm hiện tại. Nguyên tắc liên quan đến khử trùng phòng phẫu thuật, áp dụng đốt điện và điều trị vết thương cũng được xây từ những viên gạch đầu tiên của chuyên luận này.
Một bức tượng của Bác sĩ phẫu thuật Sushruta tại Đại học Phẫu thuật Hoàng gia Úc, Melbourne
Công trình The Sushruta Samhita
Những bản thảo và nguồn gốc
Sushruta Samhita (tiếng Phạn: सुश्रुतसंहिता, La tinh hóa: Suśrutasaṃhitā, lit. 'Suśruta's Compendium') là một chuyên luận đồ sộ về y học được biên soạn bằng tiếng Phạn, với sự độc đáo của nó khi được trình bày bằng văn xuôi và cả thơ với mục đích giúp người đọc dễ dàng nắm bắt và ghi nhớ được nội dung.
Hơn một thế kỷ trước, học giả Rudolf Hoernle (1841 – 1918) đã đề xuất rằng tác giả của Satapatha Brahmana (một văn bản Vệ đà từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên) đã đề cập về các học thuyết của Sushruta, vì vậy Hoernle cho rằng các học thuyết của Sushruta nên được xác định niên đại dựa trên ngày sáng tác Satapatha Brahmana. Tuy nhiên, bản thân niên đại sáng tác ra Brahmana cũng không được biết rõ, Hoernle ước tính nó vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên và khoảng thời này được chấp nhận rộng rãi bởi nhiều học giả. Sau đó, nhiều học giả đã công bố ý kiến về niên đại của công trình, và nhiều quan điểm này đã được Meulenbeld tóm tắt trong cuốn Lịch sử Văn học Y học Ấn Độ của ông.
Trọng tâm của vấn đề về niên đại đặt ra câu hỏi phải chăng Sushruta Samhita là công trình do nhiều người biên soạn nên và Acharya Sushruta là người tổng hợp lại. Theo những văn bản được viết tay lưu truyền nội bộ và những nghiên cứu của các nhà bình luận thời trung cổ cho thấy rõ rằng một phiên bản cũ của cuốn này đã bao gồm các phần 1-5, với phần thứ sáu đã được thêm vào bởi một tác giả khác sau này. Cũng có nhận định Sushruta Samhita đã trải qua 4 giai đoạn để hoàn thành [8]
Giai đoạn 1: Bhagwan Dhanwantari đưa ra những kiến thức về Ayurveda (khoa học sự sống) và Vridha Sushruta đã biên soạn Soushruta tantra
Giai đoạn 2: Acharya Sushruta biên tập lại Soushruta tantra
Giai đoạn 3: Sushruta Samhita một lần nữa được biên tập lại bởi Acharya Nagarjuna
Giai đoạn 4: Sushruta Samhita được biên tập một lần nữa bởi Acharya Chandrata.
Tương tự như vậy, trong Suśrutasaṃhitā - A Scientific Synopsis, các nhà sử học về khoa học Ấn Độ gồm Ray, Gupta và Roy đã ghi nhận quan điểm sau: "Ủy ban Niên đại của Viện Khoa học Quốc gia Ấn Độ (Kỷ yếu, 1952), có ý kiến rằng thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ tư sau Công nguyên có thể được chấp nhận là niên đại biên soạn lại Suśruta Saṃhitā của Nāgārjuna, tạo thành cơ sở bình luận của Dallaṇa." Quan điểm này vẫn là sự đồng thuận của đại đa số các học giả về lịch sử y học Ấn Độ và văn học tiếng Phạn.
Bản gốc tiếng Phạn và bản dịch
Một trong những bản viết tay cổ nhất bằng lá cọ của Sushruta Samhita đã được phát hiện ở Nepal. Nó được bảo quản tại Thư viện Kaiser, Nepal dưới dạng bản thảo KL–699, với bản sao kỹ thuật số được lưu trữ bởi Dự án Bảo tồn Bản thảo Nepal-Đức (NGMCP C 80/7).[6] Bản thảo bị hư hỏng một phần bao gồm 152 trang giấy, được viết trên cả hai mặt, với 6 đến 8 dòng bằng chữ Gupta chuyển tiếp. Bản thảo đã được xác minh là đã được người ghi chép hoàn thành vào Chủ nhật, ngày 13 tháng 4 năm 878 CN (Manadeva Samvat 301).[6]
Phần lớn học giả muốn nghiên cứu về Suśruta-saṃhitā dựa trên các ấn bản của văn bản được xuất bản trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20; bao gồm ấn bản quan trọng của Vaidya Yādavaśarman Trivikramātmaja Ācārya và cả bình luận của học giả Dalhaṇa.[47]
Các ấn bản in dựa trên tập hợp nhỏ các bản thảo còn sót lại có sẵn ở các trung tâm xuất bản lớn của Bombay, Calcutta và những nơi khác khi các ấn bản đang khác đang được chuẩn bị xuất bản - đôi khi chỉ có ba hoặc bốn bản thảo. Đương nhiên những bản thảo này không đại diện đầy đủ cho số lượng lớn các bản viết tay của Suśruta-saṃhitā đã tồn tại đến thời kỳ hiện đại. Vậy nên tất cả các bản in của Suśrutasaṃhitā đều dựa trên không quá mười phần trăm trong số hơn 230 bản viết tay của tác phẩm còn tồn tại đến ngày nay.[48] Những bản thảo này được lưu giữ trong các thư viện ở Ấn Độ và nước ngoài ngày nay. Hiện có hơn hai trăm bản thảo của tác phẩm, và một ấn bản quan trọng của Suśruta-saṃhitā vẫn chưa được hoàn tất biên dịch.[49]
Trải qua hàng ngàn năm, Sushruta Samhita vẫn được lưu giữ trong nhiều thế kỷ bằng tiếng Phạn. Vào thế kỷ thứ tám sau Công nguyên, Sushruta Samhita đã được dịch sang tiếng Ả Rập là “Kitab Shah Shun al –Hindi” và “Kitab – I – Susurud.” Bản dịch châu Âu đầu tiên của Sushruta Samhita được xuất bản bởi Hessler bằng tiếng Latinh và bằng tiếng Đức bởi Muller vào đầu thế kỷ 19; và dịch sang bằng tiếng Anh bởi Kaviraj Kunja Lal Bhishagratna trong ba tập vào năm 1907 tại Calcutta - Ấn Độ
Nội dung cuốn sách Sushruta Samhita
Sushruta Samhita là một trong những chuyên luận y học cổ đại quan trọng nhất, và cũng là văn bản nền tảng của truyền thống y học ở Ấn Độ, cùng với Caraka-Saṃhitā, Bheḷa-Saṃhitā. Các văn bản Sushruta và Charaka khác nhau ở vài khía cạnh chính, với Sushruta Samhita chủ yếu cung cấp nền tảng của phẫu thuật, trong khi Charaka Samhita tập trung chủ yếu trong việc điều trị và sử dụng thuốc.
Sushruta Samhita phần lớn đề cập đến việc phòng ngừa, điều trị các khía cạnh về phẫu thuật bao gồm sự mô tả về Shalya (phẫu thuật) và Shalakya (E.N.T - Tai mũi họng). Cuốn chuyên luận này được chia thành 2 phần, phần đầu gồm 5 chương được biết đến với cái tên Purva-tantra và phần hai là Uttara-tantra. Chỉ riêng hai phần này đã đề cập đến hầu hết các lĩnh vực y học (lão khoa, nhi khoa, thuốc tăng cảm giác tình dục, các bệnh độc tính của tai mũi họng, mắt và tâm thần. Do đó, không quá khi nói rằng Sushruta Samhita như một bách khoa toàn thư cho những người hành nghề y từ thời điểm đó đến tận sau này.
Các chương sách gợi mở điều gì?
Sushruta Samhita được chia thành 186 chương và chứa các mô tả về 1.120 bệnh, 700 cây thuốc, 64 chế phẩm từ các nguồn khoáng chất và 57 chế phẩm từ các nguồn động vật.
Nội dung của các chương này rất đa dạng, một số chủ đề được đề cập trong nhiều chương trong các cuốn sách khác nhau và tóm tắt theo bản dịch của Bhishagratna như sau:
Quyển thứ nhất là Sutra sthana, với 46 chương, nội dung trải dài từ “Nguồn gốc của Ayurveda”, “Các biện pháp phẫu thuật sơ bộ”, “Dụng cụ phẫu thuật, cách sử dụng và cấu tạo của chúng”, “Đỉa”, “Sưng”, “Loét” đến “Phân loại bệnh, quyết định xem có cần dùng thuốc hay phẫu thuật”, “Chấn thương, gắp dị vật”, “Tiên lượng bệnh, các dấu chỉ điểm”. Ngoài ra Sutra sthana còn đề cập đến tầm quan trọng của thực hành trên xác người và được mô tả một cách rất tinh tế, có hệ thống.
Quyển thứ hai là Nidana sthana, 16 chương, nội dung gồm các phần như “Bệnh hệ thần kinh”, “Bệnh trĩ”, “Bệnh ngoài da”, “Bệnh tiết niệu”, “Khối u và bướu cổ”, “Gãy xương và trật khớp” , “Các bệnh về miệng, lưỡi, thanh quản, môi”, v.v.
Quyển thứ ba là Nirasa sthana gồm 10 chương tập trung mô tả những hình thái cơ bản của giải phẫu, sinh lý, mô phôi và về gene. Đáng lưu ý ở đây là sự đề cập đến chất lượng tinh trùng (Shukra), sự thụ tinh, chu kỳ kinh nguyệt được giải thích theo khía cạnh phôi thai học, cho đến sự phát triển phôi thai và dấu hiệu của giai đoạn 2 tim (bicardic sign - ý nói về tim thai và tim của mẹ). Những điều này con người thời nay phải quan sát qua những máy móc tiên tiến, làm vô vàn thí nghiệm để có thể đưa ra một hay một vài kết luận thì dường như việc đưa ra những luận điểm cơ bản như Sushruta Samhita đã nhắc đến thời cổ đại này thì quả là một sự đáng kinh ngạc.
Quyển thứ tư tên Cikitsa sthana, với 40 chương, nội dung chủ yếu về loét: nguyên nhân, triệu chứng, loét do chấn thương và vô căn, loét bắt nguồn từ dosha, phương pháp điều trị, sáu mươi phương pháp điều trị các loại loét khác nhau; nêu ra chẩn đoán bệnh phong và các bệnh da khác, chẩn đoán tiểu đường, những khối u ở bụng,v.v.
Quyển thứ năm, Kalpa-sthana, có 08 chương, thảo luận về cách bảo quản thức ăn và đồ uống để tránh ngộ độc do thức ăn đồ uống, nước khoáng và do một số động vật gây ra. Các chủ đề khác nhau về chất độc, rắn cắn, chuột, chó cắn…đều được mô tả kèm theo cách thức điều trị chúng.
Quyển sách cuối cùng, Uttara tantra, với 66 chương - cuốn này có lẽ không được viết bởi Acharya Sushruta, mà là người biên tập khác Nagarjuna. Những chủ đề được thêm mới ngoài những nội dung của 5 phần trước đó, bao gồm các bệnh về mắt, chấn thương và nhiễm trùng, vàng da, xuất huyết, nghiện rượu, nôn mửa, hen suyễn, ho”, v.v.
Dự phòng và điều trị
Trong Sushruta, theo Tipton, khẳng định rằng một bác sĩ nên đầu tư nỗ lực để ngăn ngừa bệnh tật cũng như các thủ thuật chữa bệnh. Sushruta nói rằng một phương tiện quan trọng để phòng ngừa là tập thể dục và giữ gìn vệ sinh. Văn bản cho biết thêm rằng tập thể dục gắng sức quá mức có thể gây thương tích và khiến một người dễ mắc bệnh hơn, hãy cảnh giác về việc tập thể dục quá sức. Sushruta gợi ý tập thể dục vừa phải thường xuyên giúp cải thiện khả năng chống lại bệnh tật và suy nhược cơ thể.
Khung xương loài người
Sushruta Samhita tuyên bố, theo bản dịch của Hoernle, rằng "các giáo sư của Ayurveda nói về ba trăm sáu mươi xương, nhưng sách về Shalya-Shastra (khoa học phẫu thuật) chỉ biết ba trăm". Sau đó, văn bản liệt kê tổng số 300 như sau: 120 ở tứ chi (ví dụ: tay, chân), 117 ở vùng xương chậu, hai bên, lưng, bụng và vú, và 63 ở cổ trở lên. Sau đó, văn bản giải thích cách các tổng phụ này được xác minh bằng thực nghiệm. Cuộc thảo luận cho thấy rằng truyền thống Ấn Độ đã nuôi dưỡng sự đa dạng về tư tưởng, với trường phái Sushruta đưa ra những kết luận của riêng mình và khác với truyền thống Atreya-Caraka.
Hệ thống xương của Sushruta, Hoernle nói, tuân theo nguyên tắc tương đồng, trong đó cơ thể và các cơ quan được coi là tự phản chiếu và tương ứng qua các trục đối xứng khác nhau. Sự khác biệt về số lượng xương ở hai trường phái một phần là do Charaka Samhita bao gồm ba mươi hai ổ răng, và sự khác biệt về quan điểm của họ về cách thức và thời điểm tính sụn là xương (cả hai đều coi sụn là xương, không giống như y học hiện nay).
Phẫu thuật
Đây là lĩnh vực nổi bật nhất trong cuốn sách y học đồ sộ này. Với sự mô tả chi tiết, một cách có hệ thống, Sushruta Samhita đã cho thấy được sự thay đổi đáng kinh ngạc từ nền y học Ấn Độ thần bí sang một khuynh hướng rõ ràng và có lí lẽ thuyết phục hơn.
Cũng như y học Babylon, Ai Cập, Hy Lạp, Ả Rập và phương Tây, sự khởi đầu của y học Ấn Độ giáo có nguồn gốc từ ma thuật và mê tín và nó đã phát triển qua nhiều thế kỷ. Giống như các xã hội nguyên thủy khác, xã hội Ấn Độ sơ khai trừng phạt những người làm sai bằng cách cắt xẻo thân thể. Cắt mũi là hình phạt thông thường dành cho tội ngoại tình. Susruta được cho là đã phát triển kỹ thuật phục hồi mũi và các bác sĩ Ấn Độ đã trở nên có tay nghề cao trong việc phục hồi mũi (nâng mũi). Kỹ thuật này ngày nay được các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ thực hiện rộng rãi và được biết đến rộng rãi với cái tên “phẫu thuật mũi”. Ngày nay, nhiều người đi phẫu thuật nâng mũi để phù hợp với quan niệm làm đẹp hiện đại.
Sushruta Samhita được biết đến nhiều nhất với cách tiếp cận và những thảo luận về phẫu thuật. Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên trong lịch sử loài người đề xuất rằng một sinh viên ngoại khoa nên tìm hiểu về cơ thể người và các cơ quan của nó bằng cách thực hiện mổ xẻ trên thi hài. Một sinh viên nên thực hành theo sách, trên các đồ vật giống như bộ phận cơ thể hoặc người bệnh.
Bản văn xưa, theo Menon và Haberman, đã mô tả phẫu thuật cắt bỏ trĩ, cắt cụt chi, phẫu thuật thẩm mỹ, tạo hình mũi, nhãn khoa, thủ thuật sản khoa.
Sushruta Samhita đề cập đến các phương pháp khác nhau bao gồm ghép trượt, ghép xoay và ghép cuống. Tái tạo mũi (tạo hình mũi) đã bị cắt bằng cách sử dụng một vạt da từ má cũng đã được mô tả.
Sushruta, bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng thời Y học Ấn Độ cổ đại, đang chuẩn bị bệnh nhân trước khi thực hiện phẫu thuật tạo hình tai.
Dược liệu
Sushruta Samhita, cùng với các tác phẩm kinh điển liên quan đến y học bằng tiếng Phạn Atharvaveda và Charak Samhita, đã cùng nhau mô tả hơn 700 loại dược thảo. Phần mô tả, theo Padma, bao gồm hương vị, hình thức và tác dụng tiêu hóa của chúng đối với sự an toàn, hiệu quả, liều lượng và lợi ích.
Phẫu thuật thẩm mỹ mũi
Nâng mũi, thường được gọi là 'việc làm mũi', là một phẫu thuật được thực hiện để đạt được hai kết quả: để cải thiện chức năng thở của mũi và để cải thiện vẻ thẩm mỹ của mũi
Giáo trình của Sushruta cung cấp tài liệu đầu tiên về phẫu thuật nâng mũi bằng vạt má, một kỹ thuật vẫn được sử dụng cho đến ngày nay để tái tạo mũi. Văn bản đề cập đến hơn 15 phương pháp để sửa chữa nó. Chúng bao gồm sử dụng một vạt da từ má, gần giống với kỹ thuật hiện đại nhất hiện nay.
Mũi trong xã hội Ấn Độ vẫn là biểu tượng của phẩm giá và sự tôn trọng trong suốt thời cổ đại. Phẫu thuật tạo hình mũi là một bước phát triển đặc biệt quan trọng ở Ấn Độ vì truyền thống lâu đời về phẫu thuật cắt bỏ mũi (cắt cụt mũi) như một hình thức trừng phạt. Những tội phạm bị kết án thường bị cắt mũi để đánh dấu họ là không đáng tin cậy, nhưng việc cắt cụt mũi cũng thường được thực hiện đối với những phụ nữ bị buộc tội ngoại tình - ngay cả khi họ không bị chứng minh là có tội. Một khi được gắn nhãn hiệu theo kiểu này, một cá nhân phải sống với sự kỳ thị trong suốt phần đời còn lại của mình. Do đó, phẫu thuật tái tạo mang lại hy vọng cứu chuộc và trở lại bình thường. Việc thực hành nâng mũi bắt đầu từ từ do nhu cầu tái tạo mũi bên ngoài và sau đó phát triển thành khoa học chính thức
Đồng thuận trước khi phẫu thuật
Từ thời đại này, Acharya Sushruta đã chú ý đến tầm quan trọng của việc có sự chấp thuận phẫu thuật của bệnh nhân dù người phẫu thuật yêu cầu. Theo ông, nếu một bệnh nhân sẽ chết nếu không được phẫu thuật thì dù cho là vậy, kết quả của những cuộc phẫu thuật cũng luôn có ranh giới thành công và thất bại, vậy nên luôn phải có được sự chấp nhận tiến hành phẫu thuật của bệnh nhân.
Chuyên luận cổ đại y học Sushruta Samhita là một trong những thành tựu vĩ đại của nền khoa học Ấn Độ bấy giờ, và Acharya Sushruta là một trong những người hành nghề y và phẫu thuật viên nổi tiếng nhất ở Ấn Độ. Văn bản cổ đại đồ sộ này đã để lại cho những thế hệ sau những tư tưởng triết lý cơ bản nhưng đầy tính uyên bác, kiến thức dựa trên thực hành y học, nhất là ở khía cạnh phẫu thuật. Bằng tài năng, trí tuệ và sự nhạy bén đáng kinh ngạc của mình, Acharya Sushruta đã góp tài sản vô giá cho nền y học sự sống (Ayurveda), cũng như nền y học hiện đại bây giờ, đúng như danh xưng “Cha đẻ của ngành phẫu thuật” cũng như là “Cha đẻ của ngành phẫu tạo hình”.
Tư liệu tham khảo
- ^ Ganga Ram Garg. Encyclopaedia of the Hindu World, Volume 1. Concept publication. tr. 87.
- ^ “A Closer Look at Ayurvedic Medicine”. Focus on Complementary and Alternative Medicine. Bethesda, Maryland: National Center for Complementary and Integrative Health (NCCIH). US National Institutes of Health (NIH). 12 (4). Fall 2005 – Winter 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2006.
- Saraf S, Parihar R. Sushrutaa – The first plastic surgeon in 600 BC. Int J Plast Surg. 2006;4:2. [Google Scholar]
- History of Indian Medicine
- Dr Mukul Chandra Bora (The writer is Director, Dibrugarh University Institute of Engineering & Technology
- Bhattacharya, S. Sushruta—Nhà giải phẫu học đầu tiên trên thế giới. Indian J Phẫu thuật 84 , 901–904 (2022). https://doi.org/10.1007/s12262-022-03578-y
- Ruthkow IM (1961) Những ý tưởng vĩ đại trong lịch sử phẫu thuật. Baltimore: Công ty Williams & Wilkins
- Bagde, A. B., Ramteke, A. T., Sawant, R. S., Bhingare, S. D., & Nikumbh, M. B. (2017). Sushruta Samhia-a Unique Encyclopedia of Ayurvedic Surgery. World Journal of Pharmacy and Pharmaceutical Sciences (online), 6(4), 750-767.
Gohatre, H., & Kedar Nita, M. (2020). APPLICABILITY OF FUNDAMENTAL PRINCIPLE OF SUSHRUTA IN MODERN ERA.