Giai đoạn trước 5000BC - Ai Cập cổ đại

Giấy cói Eber

10/10/2023
502 lượt xem

Giấy cói của Ebers



Nguyễn Xuân Vinh



 



Giấy cói của Ebers có nguồn gốc vào khoảng năm 1550 a.C và tạo thành một bộ sưu tập các văn bản đầy đủ và chi tiết về y học Ai Cập. Hầu hết các bản giấy cói được đặt trong cuốn sách được gọi là Hermetic Books của thần Thoth (được người Hy Lạp xác định là thần Hermes). Một số mảnh của những cuốn sách này đã bị mất theo thời gian; tuy nhiên, nhiều giấy cói hiện đang được đặt trong thư viện và bảo tàng. Giấy cói dường như đã được viết trong triều đại của Amenhotep I (của triều đại XVIII), nhưng người ta suy đoán rằng một số dữ liệu đã được đưa vào từ lâu trước thời điểm đó. Trên thực tế, người ta cho rằng giấy cói đã bắt đầu được viết trong thời kỳ đầu của nền văn minh Ai Cập. Việc thiếu một ngày chính xác là do giấy cói đề cập đến các thực hành và công thức y tế cũ hơn so với năm 1550 a. C



Vào mùa đông năm 1873, Georg Ebers, một nhà nghiên cứu Ai Cập học và tiểu thuyết gia người Đức, đã mua tập văn bản giấy cói tại Luxor, về sau tập văn bản này được đặt theo tên ông: Ebers papyrus (giấy cói Ebers), trình công chúng vào năm 1875. Tập giấy cói được viết 1500 năm trước công nguyên, gồm 110 cuộn giấy nếu ghép lại dài cỡ 20 mét, trong đó liệt kê 700 phương thuốc bao gồm cả nguyên liệu và cách bào chế. Tập Ebers trước đó từng thuộc sở hữu của một nhà Ai Cập học khác người Mỹ, Edwin Smith, người được đặt tên cho một tập giấy cói khác Edwin Smith Papyrus mô tả về phương pháp phẫu thuật các vết thương và khối u. Smith nói rằng tập Ebers được tìm thấy giữa đôi chân của một xác ướp tại quận El-Assasif của Khu Theban. Tập Ebers hiện được lưu giữ tại Thư viện Đại học Leipzig, Đức.



Thế giới y học Ai Cập được chia thành hai loại: "phương pháp hợp lý", là phương pháp điều trị dựa trên các nguyên tắc khoa học hiện đại và "phương pháp phi lý trí", liên quan đến niềm tin tôn giáo ma thuật liên quan đến bùa hộ mệnh, thần chú đề cập đến cổ đại Các vị thần Ai Cập. Có một mối liên hệ đáng kể vào thời điểm đó giữa ma thuật, tôn giáo và sức khỏe y tế như một trải nghiệm toàn diện. Không có cái gọi là nhiễm vi khuẩn hoặc vi rút; chỉ cơn thịnh nộ của các vị thần. Giấy cói Ebers chứa đựng nhiều kiến ​​thức về giải phẫu và sinh lý học, độc chất học, bùa chú và quản lý bệnh tiểu đường. Trong số các phương pháp điều trị được bao gồm trong cuốn sách là những phương pháp điều trị bệnh do động vật gây ra, chất kích thích thực vật và chất độc khoáng chất. Phần lớn papyrus tập trung vào việc trị liệu thông qua việc sử dụng thuốc đắp, kem dưỡng da và các biện pháp y tế khác. Nó có 842 trang về các phương pháp điều trị và đơn thuốc có thể được kết hợp để tạo ra 328 hỗn hợp cho các bệnh khác nhau. Tuy nhiên, có rất ít hoặc không có bằng chứng rằng những hỗn hợp này đã được đánh giá trước khi kê đơn. Một số người tin rằng việc pha chế như vậy được lấy cảm hứng từ sự liên kết của một nguyên tố cụ thể với các vị thần.



Tập hợp 4 bản giấy cói Ai Cập, Jackie Campbell đến từ Trung Tâm Y Sinh Ai Cập Học của Đại học Manchester đã nghiên cứu 1000 đơn thuốc có niên đại từ 1850 đến 1200 năm trước công nguyên. Một số thành phần trong các đơn thuốc đã được làm rõ tuy nhiên có một vài thành phần nhỏ khác vẫn chưa khẳng định chính xác, 134 loài thực vật, 24 động vật và 28 khoáng vật. Khoảng 60% các thành phần này vẫn còn được sử dụng ngày nay trong y học, như phiên bản gốc hoặc dẫn xuất. Cũng theo Campbell, có lẽ các thầy thuốc thời Asru đã dựa vào các quyển sách này để kê thuốc chữa ho, viêm khớp và trị giun cho bà. Các phương thuốc đều bắt đầu bằng một câu thần chú hoặc lời cầu nguyện nhưng sau đó trình bày khá lớp lang, cái mà ngày nay ta gọi là theo định dạng chuẩn: hoạt chất, tá dược ổn định, tá dược mùi vị, chất làm dịu, thậm chí chất trung hòa tác dụng phụ của hoạt chất chính, chất dẫn, tỉ lệ thành phần trong công thức, cách bào chế, đường dùng, thời gian dùng, nếu không khỏi thì xem xét tiếp các phương thuốc khác.



Theo các bằng chứng khảo cổ, lịch sử và y học, các bác sĩ Ai Cập cổ đại sở hữu kiến​​thức và khả năng để điều trị bệnh nhân một cách hợp lý (phương pháp điều trị dựa trên nguyên tắc khoa học hiện đại). Tuy nhiên, mong muốn kết hợp các nghi lễ tôn giáo ma thuật (các phương pháp phi lý trí) có thể là một yêu cầu văn hóa. Nếu các ứng dụng thực tế không thành công, các thầy thuốc. y học cổ đại luôn có thể sử dụng các phương pháp tâm linh để giải thích tại sao một phương pháp điều trị không hoạt động. Một ví dụ có thể được tìm thấy trong bản dịch của một câu thần chú chữa bệnh cảm lạnh thông thường: “chảy ra, nước mũi, chảy ra, con trai của nước mũi! Chảy ra đi, những kẻ bẻ xương, phá sọ và làm ốm bảy lỗ trên đầu! ” (Ebers Papyrus, dòng 763).



Người Ai Cập cổ đại rất chú ý đến tim và hệ tim mạch. Họ cho rằng tim có nhiệm vụ điều hòa và vận chuyển các chất lỏng trong cơ thể như máu, nước mắt, nước tiểu và tinh trùng. Ebers Papyrus có một phần mở rộng mang tên “cuốn sách của trái tim” trình bày chi tiết về nguồn cung cấp máu và các động mạch kết nối với mọi vùng trên cơ thể con người. Nó cũng đề cập đến các vấn đề tâm thần như trầm cảm và sa sút trí tuệ là những tác dụng phụ quan trọng của việc bị yếu tim. Mô hình papyrus cũng bao gồm các chương về viêm dạ dày, phát hiện mang thai, phụ khoa, tránh thai, ký sinh trùng, khó khăn về mắt, rối loạn da, phẫu thuật điều trị khối u ác tính và thiết lập xương.



Có một đoạn cụ thể trong lời giải thích của papyrus về một số bệnh mà hầu hết các chuyên gia tin rằng đó là một tuyên bố chính xác về cách xác định bệnh tiểu đường. Ví dụ, Bendix Ebbell cảm thấy rằng Rubric 197 của Ebers Papyrus phù hợp với các triệu chứng của bệnh đái tháo đường. Bản dịch của ông về văn bản của Ebers như sau: “Nếu bạn kiểm tra một người nào đó bị bệnh (ở) trung tâm của con người anh ta (và) cơ thể anh ta có bị bệnh tật teo lại ở mức giới hạn của nó không; Nếu bạn không khám cho anh ta và bạn tìm thấy bệnh tật (cơ thể anh ta ngoại trừ bề mặt của xương sườn của anh ta mà các thành viên của nó giống như một viên thuốc thì bạn nên niệm - một câu thần chú chống lại bệnh tật này trong nhà của bạn; sau đó bạn cũng nên chuẩn bị cho Nguyên liệu để chữa bệnh cho anh ta: thạch anh voi, xay; hạt đỏ; hạt carob; nấu trong dầu và mật ong; anh ta nên ăn nó vào bốn buổi sáng để kiềm chế cơn khát và chữa khỏi bệnh hiểm nghèo của anh ta. ”(Ebers Papyrus, Phiếu tự đánh giá số 197, Cột 39, Dòng 7).



Mặc dù một số đoạn nhất định từ Ebers Papyrus đôi khi đọc như thơ thần bí, chúng cũng đại diện cho những nỗ lực chẩn đoán đầu tiên giống với những gì được tìm thấy trong các sách y học hiện hành. Ebers Papyrus, giống như nhiều loại khác giấy cói, không nên được coi là những lời cầu nguyện lý thuyết, mà là hướng dẫn thực hành áp dụng cho thời đại và xã hội Ai Cập cổ đại. Trong thời kỳ mà sự khốn khổ của con người được coi là do thần thánh gây ra, những cuốn sách này là phương thuốc chữa bệnh và chấn thương. Ebers Papyrus cung cấp thông tin có giá trị về kiến ​​thức hiện tại của chúng ta về cuộc sống của người Ai Cập cổ đại. Nếu không có Ebers Papyrus và các văn bản khác, các nhà khoa học và sử học sẽ chỉ có xác ướp, tác phẩm nghệ thuật và lăng mộ để làm việc. Những vật phẩm này có thể giúp ích cho các dữ kiện thực nghiệm, nhưng nếu không có bất kỳ tài liệu văn bản nào về thế giới phiên bản y học của chúng, thì sẽ không có tài liệu tham khảo nào để giải thích về thế giới Ai Cập cổ đại. Tuy nhiên, vẫn có một số nghi ngờ về tờ giấy.



Giấy cói cũng trình bày các cuộc thảo luận về phương pháp điều trị khối u, bệnh mắt hột và gãy xương. Điều thú vị là kiến ​​thức về thận của người Ai Cập khá hạn chế. Điều này được phản ánh trong thông tin của giấy cói: họ khẳng định rằng tinh trùng và nước tiểu được bơm bởi cùng một trái tim con người. Các rối loạn tâm thần và các vấn đề liên quan đến tâm thần học được trình bày chi tiết trong một chương có tên là "Cuốn sách của những trái tim". Một số phần của tài liệu giải thích các rối loạn trầm cảm và mất trí nhớ.



Trong giấy cói được mô tả một loạt các biện pháp và thủ tục tự nhiên để cải thiện các bệnh và chữa bệnh. Để cải thiện bệnh hen suyễn, ví dụ, người Ai Cập đề nghị sử dụng hỗn hợp các loại thảo mộc hòa tan trong nước nóng. Bệnh nhân phải hít khói thuốc theo công thức để thấy sự khó chịu của họ. Đối với những cơn đau ở bụng, họ khuyên nên pha chế đồ uống dựa trên sữa bò, mật ong và một số loại ngũ cốc. Nên uống nhiều lần trong ngày cho đến khi hết đau. Dầu thầu dầu được sử dụng rộng rãi như một loại thuốc tẩy, ngoài việc được sử dụng làm nhiên liệu cho đèn. Họ cũng lập một danh sách các sản phẩm thực vật quan trọng nhất; Ví dụ, húng quế được sử dụng để điều trị các vấn đề về tim. Nha đam đã được sử dụng cho ký sinh trùng và cây belladonna cho chứng mất ngủ hoặc đau dữ dội. Để chống tiêu chảy, họ đề nghị một hỗn hợp quả sung, nho, ngô, hành tây và dâu tây trộn với nước. Hỗn hợp này tạo thành một loại nước trái cây phải được uống bởi bệnh nhân.



Tài liệu tham khảo:



1. https://en.wikipedia.org/wiki/Ebers_Papyrus



2. https://www.ancient-origins.net/artifacts-ancient-writings/ebers-papyrus-0012333



3. https://www.newworldencyclopedia.org/entry/Ebers_Papyrus


aaaaaaaa

Văn bản Kahun Papyrus

10/10/2023
820 lượt xem

NIÊN ĐẠI: 1800 TCN



VĂN BẢN KAHUN PAPYRUS



Lê Bảo Trung



Phát hiện quan trọng trong lịch sử y học



Nằm cách phía tây nam của Cairo chưa đầy 2 tiếng đi xe, ốc đảo Fayoum là một trong những kho báu ẩn giấu của đất nước Ai Cập. Được tạo thành từ nhiều hồ và kênh rạch, khu vực rộng lớn này là địa điểm du lịch cuối tuần lý tưởng cho những ai muốn thoát khỏi sự nhộn nhịp của thủ đô. Ốc đảo Fayoum từng được nhắc tới với vẻ đẹp huyền ảo trong cuốn sách nổi tiếng của nhà văn Paulo Coelho, nơi cậu bé Santiago lần đầu tiên được giới thiệu với ‘nhà giả kim’. El Fayoum là thành phố lâu đời nhất Ai Cập. Nơi này được nuôi dưỡng bởi sông Nile thông qua một loạt kênh rạch có tên gọi Bahr Yussef, vốn được xây dựng bởi người Ai Cập cổ đại. Ngay bên ngoài trung tâm ốc đảo là ba kim tự tháp ít được biết đến, bao gồm kim tự tháp ở Meidum, kim tự tháp ở Lahun và kim tự tháp Amenehet ở Hawara. Ít ai biết rằng, đây cũng là nơi tìm ra một trong những văn bản y học cổ xưa và quan trọng bậc nhất trong tiến trình xác lập lịch sử của y học.





Hình 1. El Fayoum – Ai Cập





Hình 2. Kim tự tháp ở Lahun



Papyrus - loại giấy đầu tiên trong lịch sử loài người



Vào năm 1889, trong lúc đang tiến hành khai quật tại khu vực Lahun, nhà Ai Cập học người Anh Flinders Petrie đã phát hiện ra những mảnh giấy cói nằm rải rác. Văn bản này được phát hiện trong tình trạng khá tệ với nhiều mảnh rời rạc. Ông Petrie đã tốn tổng cộng 8 tháng để hoàn tất quá trình tìm kiếm, diễn ra vào suốt từ tháng 4 tới tháng 11 năm 1889. Kahun là tên mà ông Pietre đặt cho nơi tìm thấy bản giấy cói này. Trên thực tế, giấy cói Kahun là văn bản y khoa cổ nhất từng được biết đến. Hầu hết kí tự được viết vào khoảng năm 1825 BC, tức là đã cách đây 4000 năm. Đây là thời đại của Trung Vương Quốc Ai Cập, Vương triều thứ XII, cụ thể là năm thứ 29 của triều đại của Amenemhat. Để nhấn mạnh sử cổ xưa của nó, văn bản cổ nhất của nền văn minh Babylon có niên đại không sớm hơn 700 năm trước công nguyên, trong khi những văn bản y học cổ nhất của văn minh Trung Hoa có niên đại vào khoảng 200 năm trước công nguyên. Lý do chúng ta biết rõ thời điểm xuất hiện của giấy cói Kahun như vậy bởi ai đó đã ghi lại thời gian cụ thể này ở mặt sau của tờ giấy. Bản thân tờ giấy cách đây 4000 năm cũng đã được chủ nhân cũ (có lẽ là một thầy thuốc chăm chỉ) dùng nhiều tới mức hư hỏng nặng và phải sửa chữa bằng một miếng vá từ một tờ giấy hành chính. Sau khi được xếp đặt cẩn thận, mặc dù vẫn có nhiều đoạn bị thiếu, nhưng cũng đủ để phơi bày những thông tin quan trọng cho thấy những bằng chứng về y học và sức khỏe của người Ai Cập cổ đại. F Griffiths là người đầu tiên công bố bản dịch của mình trong “The Petrie Papyri: Hieratic Papyri from Kahun and Gurob” năm 1893.



Công trình bao gồm tổng cộng 4 chương chia làm 34 đoạn với từng đoạn viết về một vấn đề y học riêng. Các đoạn được trình bày khá khoa học với bố cục gồm: bắt đầu với những mô tả ngắn gọn về triệu chứng, sau đó, các thầy thuốc được hướng dẫn cách để đưa ra một chẩn đoán và cuối cùng là một số đề xuất về cách điều trị. Tuy vậy, văn bản không đề cập tới cách tiên lượng những vấn đề có thể xảy ra. 



Trong chương 1 văn bản, tác giả chủ yếu viết về một số bệnh lý phụ khoa và những bệnh lý mà tác giả nghĩ rằng nguyên nhân của nó tới từ cơ quan sinh dục nữ. Ví dụ về một đoạn như vậy:



“HƯỚNG DẪN cho một người phụ nữ có tử cung đã bị bệnh…. 



BẠN NÊN TIẾP TỤC HỎI CÔ ẤY: Cô ngửi thấy có mùi gì? Nếu cô ấy trả lời "Tôi ngửi thấy cháy khét".



BẠN NÊN TUYÊN BỐ VỀ CÔ ẤY: "Đây là một rối loạn của tử cung." 



BẠN NÊN KÊ TOA CHO NÓ: “cô ấy sẽ xông khói mọi thứ mà cô ấy ngửi thấy có mùi khét”.”



Chương 2 của văn bản lại làm cho chúng ta phải bất ngờ về sự hiểu biết sâu sắc về sinh sản của người Ai Cập cổ đại. Chủ đề của chương này chủ yếu xoay quanh vấn đề sinh sản: kích thích tình dục, phát hiện thai kỳ, thúc đẩy sinh sản và các phương pháp tránh thai và một số đoạn cuối cùng có lẽ là phương pháp để điều trị thống kinh (cơn đau do kinh nguyệt). Một vài đoạn có thể dịch ra như sau:



“ĐỂ TRÁNH THAI: phân cá sấu tán mịn trong sữa chua, tưới ... (bị thiếu)."



Về mặt khoa học mà nói, phân cá sấu có tính kiềm ở mức độ tương tự như các chất diệt tinh trùng hiện đại, nghĩa là nó vô hiệu hóa tinh trùng khi đi vào âm đạo về mặt hóa học. Bột nhão có lẽ sẽ làm loãng phân đến mức không gây nhiễm bệnh. Sau này, người ta ghi nhận người Ấn Độ sử dụng một phương pháp ngừa thai tương thự nhưng thay thế phân cá sấu bằng phân voi. Một số thầy thuốc Ả Rập vào thế kỷ thứ chín và thứ mười một đã viết rằng phân voi là một biện pháp tránh thai hiệu quả khi trộn với mật ong.



Việc sử dụng mật ong như một biện pháp tránh thai cũng được đề cập tới trong giấy cói Kahun khi họ đã đề cập tới một hỗn hợp giữa mật ong và natron. 



“ĐƠN THUỐC KHÁC: bơm 454 ml mật ong vào âm đạo của cô ấy, kết thúc bằng một nhúm natron.”



Natron là một hỗn hợp tự nhiên của natri cacbonat ngậm 10 phân tử nước,  một loại tro soda. Hợp chất này có thể làm co miệng tử cung và khiến việc thụ thai khó xảy ra. Mật ong làm tắc nghẽn tinh trùng và ngăn không cho tinh trùng đi qua cổ tử cung. Phương pháp tránh thai thứ ba được đề cập trong giấy cói là một chất giống như kẹo cao su được đưa vào âm đạo. Điều này cũng sẽ làm tắc nghẽn một cách cơ học giúp ngăn chặn tinh trùng xâm nhập vào tử cung.



Phương pháp để chữa cơn đau tử cung được ghi chép phần này như sau:



“CHỮA CƠN ĐAU TỬ CUNG CẤP TÍNH: phơi khô quả chà là được ngâm kỹ với rượu ngọt, để cô ấy ngồi lên trong tư thế dạng đùi ra.”



Ở trang 3 của giấy cói Kahun, các dòng từ 12 đến 24 mô tả một loạt xét nghiệm mà nhờ đó có thể đưa ra tiên đoán về các vấn đề như mang thai, khả năng sinh sản và thậm chí cả giới tính của thai nhi. Phần này của tờ giấy cói bị hư hỏng nặng một cách đáng tiếc. Chính ở phần này, văn bản trích dẫn nhiều phương pháp từ những tài liệu khác, mà nếu chúng ta có được đầy đủ, sẽ có thể hiểu được một cách khái quát các vấn đề y học liên quan tại thời điểm đó. Một ví dụ về phương pháp tiên đoán khả năng sinh sản trong chương này:



“PHƯƠNG PHÁP KHÁC: bạn nên để cô ấy ngồi trên sàn nhà phủ đầy bã bia (sweet ale), đặt một hỗn hợp chà là... nôn mửa, cô ấy sẽ sinh con. Bây giờ liên quan đến số lượng mỗi lần nôn ra khỏi miệng cô ấy, đây là số lần mang thai... Tuy nhiên, nếu không nôn, cô ấy sẽ không sinh con bao giờ.”



Có 2 mảnh rời nhỏ ở cuối tờ giấy cói được xếp vào chương 4. Một trong số chúng hướng dẫn cách chữa đau răng, đoạn còn lại dường như nhắc tới một lỗ rò bàng quang âm đạo và cảnh báo các thầy thuốc không nên cố gắng can thiệp vào nó.



Giấy cói Kahun cho thấy người Ai Cập cổ đại đã có những mối quan tâm sâu sắc tới bệnh tật bằng việc ghi nhận rất nhiều các triệu chứng và bất thường về sức khỏe. Họ đã cố gắng tiếp cận bệnh tật bằng nguyên nhân gây bệnh để đưa ra phương pháp điều trị. Văn bản này cũng cho thấy những người này đã có hiểu biết đáng kể về vai trò quan trọng của giao hợp trong thụ thai. Xa hơn, thể thấy xã hội Ai Cập cổ đại đã hết sức quan tâm tới vấn đề kiểm soát sinh sản với việc đưa ra nhiều phương pháp ngừa thai áp dụng vào thực tế. Ngoài ra, văn bản cho thấy tình trạng vô sinh ở phụ nữ cũng đã được ghi nhận. Hiện nay giấy cói Kahun đang được lưu giữ tại bảo tàng Khảo Cổ Ai Cập Petrie của Đại học London.





Hình 2. Trang 1 và 1 phần của trang 2





Hình 3. Một phần của trang 2 và trang 3





Tài liệu tham khảo




  1. https://www.intechopen.com/chapters/78710#B1

  2. Smith LThe Kahun Gynaecological Papyrus: ancient Egyptian medicineBMJ Sexual & Reproductive Health 2011;37:54-55.



https://drive.google.com/file/d/1uNhdD2b3r4FAJCO4ByvQH0WQORrHXti0/view?usp=drive_link




  1. Med. J. Aust., 1975, 2: 949-952.



https://drive.google.com/file/d/1krTqGd0ee6k7wNy1FUu_pdhDqeC38McX/view?usp=drive_link




  1. https://digi.ub.uni-heidelberg.de/diglit/griffith1897bd1/0010/image,info

  2. https://aadl.org/node/198977



 



 


aaaaaaaa

Bộ luật Hammurabi quy định mức phí dành cho bác sĩ phẫu thuật và hình phạt dành cho hành vi sơ suất

10/10/2023
1.145 lượt xem

NIÊN ĐẠI 1800 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN 



Bộ luật Hammurabi quy định mức phí dành cho bác sĩ phẫu thuật và hình phạt dành cho hành vi sơ suất



Nguyễn Thị Ngọc Trang



 



Những bộ luật đầu liên được ra đời như thế nào? Chúng có đủ tính minh bạch và đem lại công bằng cho mọi người không khi xã hội thời bấy giờ còn phân chia nhiều tầng lớp xã hội. Những ai cố tình làm sai sẽ bị xử phạt như thế nào? Và ngay cả những vị bác sĩ chỉ chuyên tâm cứu giúp bệnh nhân, họ sẽ gặp phải điều gì khi chẳng may có sự cố y khoa ngoài ý muốn. 



Cùng xem qua bộ luật được ban hành bởi vị hoàng đế Hammurabi đệ lục của đế chế Babylon cổ đại có thực sự rùng rợnrơn như chúng ta vẫn thường nghe không nhé.



 



Sơ lược về bộ luật Hammurabi.



 



Bộ luật Hammurabi là một trong những bộ luật thành văn sớm nhất và đầy đủ nhất. Có 282 điều luật, trong đó 9 điều luật (215-223) là đề cập về thực hành y khoa, bộ luật đã lập ra các tiêu chuẩn cho những tương tác thương mại (commercial interactions) và đặt ra các hình phạt và khoản tiền phạt để đạt được công lý. 



 



Hammurabi được đặt ra dựa trên cha đẻ của bộ luật này. Đó chính là hoàng đế Hammurabi đệ lục của đế chế Babylon cổ đại - đương nhiệm từ 1792 - 1750 trước công nguyên. Thời đại này đã chứng kiến sự giao thoa giữa y học và pháp luật qua bộ luật này. Được biết, tên vị hoàng đế này được lấy từ sự pha trộn văn hóa, Hammu có nghĩa là “gia đình” trong tiếng người Amorite, còn rapi có nghĩa là “tuyệt vời” trong tiếng người Akkadian - cũng là ngôn ngữ phổ biến của Babylon lúc bấy giờ. 



 



Hiện nay, thành Babylon vào thời đại Hammurabi đã bị chôn vùi dưới lớp nước biển cho nên bất cứ văn kiện nào ông ta giữ đã bị tiêu tan từ lâu. Nhưng những phiến bằng đất sét được khám phá ở những địa điểm cổ đại khác có thấy thoáng qua về tính cách cũng như lối cai trị của vị hoàng đế.



 



Và di sản mà chúng ta đã tìm thấy đó chính là tấm bia đá đen chứa Bộ luật Hammurabi được chạm khắc từ một phiến diorit nặng bốn tấn, một loại đá bền nhưng cực kỳ khó chạm khắc. Trên cùng của nó là một bức phù điêu cao hai mét rưỡi mô tả một vị thần Hammurabi đang đứng nhận luật—được tượng trưng bằng một thước đo và thước dây—từ Shamash đang ngồi, vị thần công lý của người Babylon. Phần còn lại của tượng đài cao 7 foot 5 inch được bao phủ bởi các cột khắc chữ hình nêm.





 



Bộ luật Hammurabi bao gồm nhiều hình phạt khắc nghiệt, đôi khi yêu cầu cắt bỏ lưỡi, tay, ngực, mắt hoặc tai của bên phạm tội. Nhưng bộ luật cũng là một trong những ví dụ sớm nhất về việc một người bị buộc tội được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội.



 



Khi bộ luật Hammurabi được áp dụng thực tế



 



282 sắc lệnh đều được viết dưới dạng điều kiện nếu-thì. 



 



Nếu một người đàn ông đánh cắp một con bò, thì anh ta phải trả lại gấp 30 lần giá trị của nó. Các sắc lệnh bao gồm từ luật gia đình đến hợp đồng nghề nghiệp và luật hành chính, thường phác thảo các tiêu chuẩn công lý khác nhau cho ba tầng lớp xã hội Babylon—tầng lớp hữu sản, người tự do và nô lệ.



 



Một ví dụ khác cụ thể hơn về bộ luật này khi áp dụng trong y khoa như sau: phí bác sĩ để chữa vết thương nặng sẽ là 10 đồng bạc shekel cho một quý ông, 5 đồng bạc shekel cho người tự do và 2 đồng bạc shekel cho nô lệ. 



Các hình phạt cho sơ suất cũng theo cùng một hệ thống: một bác sĩ giết một bệnh nhân giàu có sẽ bị chặt tay, trong khi chỉ cần bồi thường tài chính nếu nạn nhân là nô lệ.



Các quy định về y khoa trong bộ luật Hammurabi



 



Y học, thầy thuốc thời xưa thường không được coi trọng, họ thường phải đối mặt với những điều khắc nghiệt, bị tầng lớp cai trị gán mọi tội lỗi khi không thể cứu sống bệnh nhân và đưa ra những quy định nghiêm khắc để điều chỉnh ngành y, chính vì thế y học thời xưa thiếu đi những yếu tố thuận lợi để phát triển. Nhưng sau khi lên trị vì, vua Hammurabi đã ban hành bộ luật Hammurabi và có đề cập đến một vài điều luật về y học và thầy thuốc, đây như là một văn bản đầu tiên có sự giao thoa giữa luật pháp và y học trong thời kỳ đầu của nền văn minh nhân loại [2].



 



Nhưng những niềm tin thời bấy giờ vẫn vô cùng lạc hậu, họ tin rằng bệnh tật là sự can thiệp của các yếu tố siêu nhiên, ma quỷ, linh hồn hay là cơn thịnh nộ của thần linh. Người bị ốm đau bệnh tật là cái giả phải trả cho những tội ác của họ. Như Ashakku là con quỷ tiêu thụ, lira tinh thần dịch bệnh, Alu gây mù, Nergal gây sốt, Tiu gây đau đầu, và Namtar là ác quỷ tinh thần chịu trách nhiệm về bệnh dịch hạch. Chính vì những niềm tin đó mà các thầy thuốc ở thời kì này cũng đều xuất thân từ giới linh mực, ma thuật và tôn giáo. Và được chia làm 3 nhóm người: Thầy bói, phù thủy và thầy thuốc. Trong bộ luật Hammurabi này có đề cập đến chủ yếu là đối tượng thầy thuốc người chủ yếu xuất thân là bác sĩ thú y hoặc thợ cắt tóc. Thợ cắt tóc được xếp vào nhóm thầy thuốc do lúc bấy giờ họ đã thực hiện những việc mà được coi như là phẫu thuật thẩm mỹ trong việc đánh dấu nô lệ và thực hiện nhưng phẫu thuật nha khoa. [5]



 



Nhưng do trong thời kỳ này, xã hội vẫn còn phân hóa mạnh với 3 tầng lớp chính nên các điều luật về Y học trong bộ luật này cũng có sự ảnh hưởng bởi yếu tố tầng lớp. Và dưới thời vua Hammurabi, xã hội có 3 tầng lớp chính: awīlum,  muškēnum và wardum [4][5].

 



Awīlum - được coi là tầng lớp thượng lưu gồm:  quý tộc, doanh nhân, lãnh chúa phong kiến, đàn ông tự do, quý ông, địa chủ lớn, quân đội, các nhà lãnh đạo, quan chức cung điện, các chuyên gia và các linh mục đền thờ [5].



 



Muškēnum - tương đương với tầng lớp trung lưu: những người đàn ông tự do có thể nghèo hoặc có thể giàu, thường dân có thể sở hữu tài sản nhỏ, nông dân thuê, thợ thủ công, thương nhân, lao động thuê và thậm chí cả nô lệ cũ [5].



 



Wardum - tầng lớp nô lệ, là những kẻ yếu thế bị trói buộc và trao đổi như một món hàng hóa [4][5].



 



Và bộ luật Hammurabi quy định 9 điều về thầy thuốc gồm từ điều 215 đến 223. [2]



 



Điều 215: Nếu như thầy thuốc điều trị một vết thương nghiêm trọng cho một người nào đó bằng bronze lancet, và cứu sống được họ, hoặc mở vùng thái dương của người đó bằng bronze lancet, và bảo vệ được mắt của họ, thì vị thầy thuốc đó sẽ nhận được 10 đồng bạc shekels [2][3].

 



 





(Bronze lancet, được tìm thấy ở Ephesus )  





( Điều 215 của bộ luật Hammurabi [3])



Điều 216: Nếu bệnh nhân trong điều 215 mà thuộc tầng lớp muškēnum, thì thầy thuốc sẽ nhận được 5 đồng bạc shekels [2][3].





( Điều 216 của bộ luật Hammurabi [3] )



 



Điều 217: Nếu bệnh nhân trong điều 215 là một nô lệ thì người chủ của họ phải trả cho thầy thuốc 2 đồng bạc Shekels [2][3].



 





( Điều 217 của bộ luật Hammurabi [3] )



 



Điều 218: Nếu người thầy thuốc mà dùng Bronze lancet để chữa một vết thương nguy hiểm nhưng khiến người đó mất mạng, hay dùng Bronze lancet để mở phần thái dương của bệnh nhân mà khiến họ mù thì người thầy thuốc đó sẽ bị chặt tay [2][3].





( Điều 218 của bộ luật Hammurabi [3] )



 



Điều 219: Nếu như thầy thuốc mà chữa trị một vết



thương nguy hiểm cho một nô lệ hoặc một thường dân



bằng Bronze lancet mà làm họ mất mạng, thì thầy thuốc



phải bồi thường lại cho nạn nhân một nô lệ khác. [3]



 





( điều 219 của bộ luật Hammurabi [3] )



 



Điều 220: Nếu thầy thuốc mở vùng thái dương của bệnh nhân bằng bronze lancet mà làm mù mắt của bệnh nhân, thì bác sĩ phải bồi thường cho bệnh nhân bằng một nửa giá trị của bản thân mình [3].





( Điều 220 của bộ luật Hammurabi [3] )



 



Điều 221: Nếu bác sĩ đã làm lành xương gãy, hoặc chữa lành gân đau thì, bệnh nhân ( người sở hữu vết thương ) sẽ phải trả cho thầy thuốc 5 đồng bạc Shekels [3].





( Điều 221 của bộ luật Hammurabi [3] )



 



Điều 222: Nếu người mà được chữa trị ở điều 221 là dân thường thì bác sĩ sẽ nhận được 3 đồng bạc Shekels [3].





( Điều 222 của bộ luật Hammurabi [3] )



 



Điều 223: Nếu người được chữa trị ở điều 221 là một nô lệ, thì chủ của họ phải trả cho thầy thuốc 2 đồng bạc Shekels [2][3].





( Điều 223 của bộ luật Hammurabi [3] )





 



Tài liệu tham khảo:



References



[1] : Code of Hammurabi.



Code of Hammurabi: Laws & Facts | HISTORY

[2] : Hammurabi’s medical regulation code.

Hammurabi’s medical regulation code (1750 BC): Noble profession has always been regulated cruelly ? – Evolution of Medical profession-Extinction of good doctors (extinctdoctorgood.com)



[3] : Hammurabi’s law code. 



Electronic Version of Hammurabi's Law Code | eHammurabi

[4] : History of Mesopotamia. 



History of Mesopotamia - Babylonian Law, Sumerian Cities, Tigris-Euphrates | Britannica



[5] : Babylonian medicine, managed care and Codex Hammurabi, circa 1700 B.C



Babylonian medicine, managed care and Codex Hammurabi, circa 1700 B.C - PubMed (nih.gov)



 


aaaaaaaa

Lưỡng Hà - Thời kỳ không chút nào "lặng lẽ" của Y học

10/10/2023
2.167 lượt xem

 



Lưỡng Hà - Thời kỳ không chút nào "lặng lẽ" của Y học



Nguyễn Thành Luân



Nguyễn Thụy Mỹ Duyên



 



Hoàn cảnh thời đại:



Lưỡng Hà (Mesopotamia, tiếng Ai Cập: giữa hai dòng sông) - là cái nôi của nhiều nền văn minh của nhân loại, đã tồn tại hàng ngàn năm. Người dân Lưỡng Hà đã mang đến những đóng góp đáng kể cho tiến trình phát triển của thế giới, những phát minh không phải chỉ mang ý nghĩa quá lớn lao mà chúng còn len lỏi trong từng khía cạnh của đời sống xã hội như: chữ viết (chữ hình nêm), bánh xe, các bộ luật, khái niệm thời gian trong ngày hay quyền công dân…



Vào khoảng năm 2000 TCN, những nhà trị liệu bắt đầu ghi chép lại việc thực hành Y khoa dưới dạng chữ viết, sử dụng một hệ thống chữ viết dạng hình nêm gọi là chữ hình nêm. Chữ hình nêm là một loại chữ viết được sử dụng ở vùng Lưỡng Hà (Iraq cổ đại). Người ta tạo nên các ký tự có hình nêm bằng cách ấn đầu của cây bút sậy có đầu được vát nhọn vào những phiến đất sét mềm, từ đó, xuất hiện loại chữ với tên gọi “chữ hình nêm”. Những phiến đất sét này được phát hiện trong đống đổ nát của thành phố Nineveh (nay là miền bắc Iraq), từng là thủ đô của đế chế Assyria hùng mạnh, do Ashurbanipal cai trị từ năm 669 đến khoảng năm 631 TCN. Thủ đô Nineveh bị lửa thiêu rụi vào khoảng năm 612 TCN và may thay, trong khi sách giấy bị lửa thiêu hủy, hầu hết các phiến đất sét nhờ lửa mà được nung kỹ hơn, khiến chúng trở thành một trong những tài liệu được bảo tồn tốt nhất trong hàng nghìn năm lịch sử của người Lưỡng Hà.



Thư viện của Vua Ashurbanipal:



Vua Ashurbanipal (685 - 627 TCN), là vị vua của đế chế Assyria mới. Trong thời gian trị vì, ông đã phát triển một thư viện sưu tầm và phân loại một cách hệ thống đầu tiên trên thế giới.



Thư viện của Ashurbanipal là Thư viện Hoàng gia lâu đời nhất trên thế giới còn tồn tại. Các nhà khảo cổ học của Bảo tàng Anh quốc đã phát hiện ra hơn 30,000 bản chữ hình nêm và các mảnh vỡ của chúng tại thủ đô Nineveh (Kuyunjik thời bấy giờ). Bên cạnh các bản khắc chữ, các ký tự và văn bản hành chính và pháp lý lâu đời, các nhà khảo cổ học còn tìm ra hàng nghìn văn bản khác về bói toán, ma thuật, Y học, văn học và từ vựng. Nhờ Thư viện này, Công trình Bách khoa Toàn thư Y học Nineveh ra đời.





Hình 1. Những phiến đất sét từ Thư viện của Vua Ashurbanipal tại bảo tàng, phòng trưng bày số 55.



Bách khoa Toàn thư Y học Nineveh là một cuốn sổ tay 2,600 năm tuổi viết về Y học, trong đó chứa hàng nghìn mô tả về bệnh và triệu chứng, cùng với đó là các đơn thuốc điều trị được chỉ định.



Y học thời kỳ Lưỡng Hà:



Mặc dù nền văn minh Lưỡng Hà tồn tại lâu đời cũng tương đương hay thậm chí có khi đã có trước nền văn minh Ai Cập, hiểu biết của chúng ta về Y học Lưỡng Hà lại ít hơn, chủ yếu là bởi vì nguồn tài liệu chữ hình nêm, loại chữ khá độc đáo mà người Lưỡng Hà đã sáng tạo ra, lại được nghiên cứu ít kỹ lưỡng bằng.



Nhờ Thư viện của Vua Ashurbanipal và Bách khoa Toàn thư Y học Nineveh, chúng ta đã có thể hiểu được phần nào về Lưỡng Hà thời bấy giờ cũng như các thành tựu mà họ đã mang lại cho nhân loại, trong đó có Y khoa.



Nhận thức đối với Y học:



Trong thời kỳ Lưỡng Hà cổ đại, tất cả các bệnh tật đều được xem xét qua góc độ tâm linh, với niềm tin rằng chúng là do sự can dự của thần thánh, ác quỷ, hoặc những linh hồn độc ác khác. Mỗi bệnh tật thường được liên kết với một thần thánh hoặc một linh hồn cụ thể và có tên riêng để mô tả tính chất hoặc lịch sử thần thoại của nó. Bằng cách xác định này, các lời khẩn cầu kêu gọi các thần thánh đã trừng phạt loại bỏ bệnh tật, kèm theo đó là các thảo dược nhằm điều trị giảm nhẹ triệu chứng bệnh. 



Từ đó, bệnh tật đối với người dân Lưỡng Hà thời kỳ này đều do những tác nhân bên ngoài cơ thể gây ra và vì vậy, họ đề cập tương đối ít về ý tưởng điều trị thông qua cân bằng vật chất bên trong cơ thể.



Vào đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, kiến thức về bệnh được hệ thống hóa qua việc liệt kê các lời cầu nguyện chữa trị thành một danh sách cơ bản về những bệnh tật phổ biến nhất. Thông qua danh sách này, người ta nhận thấy được việc thực hành y khoa đã được hệ thống hóa một cách chặt chẽ từ lâu, khởi đầu với sự xuất hiện của Bộ luật Hammurabi vào thế kỷ 18 TCN (1760 TCN). Danh mục Y khoa Assur tiết lộ rằng, vào khoảng thiên niên kỷ thứ nhất TCN, những nội dung này đã được hệ thống hóa thành những tuyển tập văn bản lớn, nội dung trong đó được sắp xếp theo bộ phận cơ thể liên quan đến bệnh, tính từ đầu đến chân.



Thầy thuốc & Khám, chữa bệnh:



Bác sĩ, hay bất kể những ai làm việc trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe - thường là những người có chuyên môn và học vấn cao ở vùng đất Lưỡng Hà và vì lẽ đó, luôn được người dân nơi đây kính trọng. Họ - những người thầy thuốc - trước tiên phải học tập trở thành những người soạn thảo, phải trải qua 10 - 12 năm hoàn thành chương trình học của trường lớp chuyên về soạn thảo, nghiên cứu các bản thảo chữ hình nêm rồi mới nghiên cứu các chuyên luận về Y khoa. Sau khoảng thời gian dài đằng đẵng đó, họ mới cống hiến toàn bộ thời gian của mình cho nghiên cứu Y khoa. Một khi được dân cư nơi đây công nhận là thầy thuốc, những người bác sĩ Lưỡng Hà sẽ sống một cuộc sống khá thoải mái.



Trong suốt lịch sử Lưỡng Hà, người ta phân bác sĩ thành 2 loại chính yếu: asu asipu. Asu là bác sĩ y khoa chữa bệnh hay chữa thương theo kinh nghiệm - chủ yếu điều trị bằng thảo dược và phẫu thuật, họ được đào tạo trong những ngôi trường gắn liền với những ngôi đền của Nữ thần của Y học và Chữa lành - Gula và họ thường tập trung vào những than phiền của người bệnh. Asipu là nhà trị liệu dựa vào cái mà mọi người hay gọi là ‘pháp thuật’, họ hành nghề y thông qua bói toán và tôn giáo, xác định điều gì đã gây ra bệnh tật ở người bệnh: do xúc phạm thần linh hay là do ác quỷ và thường tập trung vào khám lâm sàng ở bệnh nhân. Ngoài ra, còn có những dạng thầy thuốc khác như baru (những nhà bói toán thông qua soi gan động vật để tiên lượng bệnh) và còn một dạng thầy thuốc khác đó là sabutu (bà mụ) chuyên làm công việc đỡ đẻ [Baru, Sabutu]. Dù cho những nhà học giả ngày nay đôi khi đề cập đến asipu như là một ‘bác sĩ phù thủy’ và asu như một ‘nhà thực hành y khoa’, người Lưỡng Hà thời bấy giờ tôn trọng cả hai nhóm người này như nhau.



Bên cạnh đó, đối với nền văn minh này, cả nam và nữ đều có thể trở thành bác sĩ, dù vậy thì, như nhà sử học người Pháp Jean Bottéro (chuyên nghiên cứu về Cận Đông cổ đại) đã ghi nhận: “Những người phụ nữ làm công việc soạn thảo, ghi chép, thầy trừ tà hay chuyên gia trong lĩnh vực bói toán (tức asu hay asipu) có thể đếm được hết trên các đầu ngón tay của một bàn tay”.



Người bác sĩ có kiến thức về bệnh sau quá trình học nhiều năm. Họ nhận định bệnh tật với những cái tên như là “ašû”, “sāmānu” và “ṣētu” hay thông qua sự liên quan của bệnh đến một phần cơ thể cụ thể, ví như “phổi bệnh”, “cơ bệnh” hay “trực tràng bệnh”. Các nhà trị liệu nhận biết được rằng một bệnh có thể biểu hiện thông qua nhiều dấu hiệu từ nhiều cơ quan nhưng họ lại không cho rằng liệu pháp nhắm trực tiếp đến các dấu hiệu đấy là chỉ là để giảm đau chứ thực ra không nhằm điều trị nguyên nhân, tương tự với cái mà ngày nay chúng ta gọi là “điều trị triệu chứng”.



Cơ sở và công cụ khám, chữa bệnh:



Người Lưỡng Hà hiểu được rằng bệnh tật đi đôi với việc không sạch sẽ (dù lúc bấy giờ họ không nhận ra vi khuẩn chính là tác nhân gây bệnh như mọi người ngày nay biết đến), nên việc bác sĩ dùng một cái giường để đặt người bệnh nằm lên, thay vì nằm dưới nền đất bụi bặm, lại khá có ý nghĩa trong điều trị bệnh. Một danh sách phân loại các thiết bị của bác sĩ nêu chi tiết như sau: một chiếc giường và khăn trải giường cùng với các dụng cụ phẫu thuật và các thiết bị y tế khác... những bệnh nhân nặng được khám và điều trị trên giường, và giường cũng có thể được dùng làm bàn mổ ở một số trường hợp.



Phí dịch vụ khám chữa bệnh được tính tùy thuộc vào địa vị xã hội của mỗi người bệnh. Một bác sĩ chủ trì việc sinh nở của một quý tộc được trả nhiều hơn so với chủ trì một ca sinh thường, và việc tính phí như thế này đã được áp dụng rất lâu cho đến khi Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1772 TCN) ra đời và hệ thống hóa hoạt động y tế. Đơn thuốc cũng được cấp như vậy, trong khi người bác sĩ có thể được trả bằng vàng khi pha chế thuốc cho một vị hoàng tử thì khoản tiền trả cho việc này đối với một người bình thường có thể là một bát súp hoặc một chiếc cốc bằng đất sét. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy các bác sĩ do dự trong việc điều trị cho người nghèo và họ đều kê những đơn thuốc giống nhau, với cùng những thành phần như vậy mà không quan tâm đến địa vị xã hội của bệnh nhân.



Thuốc - Thảo dược và một số dược phẩm khác:



Các tài liệu Y khoa lưu hành lúc bấy giờ tựa như công cụ để ghi nhớ trong lúc thực hành khám chữa bệnh, có các công thức thuốc nhưng đều bỏ qua những hướng dẫn và số lượng chính xác để chế thuốc. Các thầy thuốc phải dựa vào kinh nghiệm nhất định thông qua việc thực hành nhiều lần, để tìm ra được cách làm đúng, các bước và số lượng chính xác để chế thuốc.



Asu chuẩn bị đơn thuốc tại chính nơi làm việc của mình, họ chuẩn bị sẵn một danh sách các thứ như cách cất giữ thuốc, cân đong, sơ chế, đường dùng thuốc và từ đó, hàng nghìn phương pháp điều trị được sáng chế ra nhờ vào việc kết hợp các nguyên liệu đã có lại, dựa trên thử nghiệm và những lần xảy ra sai sót, bên cạnh đó còn dựa trên một ít lý do về tôn giáo đương thời. Đơn thuốc được chuẩn bị bằng cách được nghiền trong lúc asu đọc một vài câu thần chú dưới sự chứng kiến của người bệnh.



Thảo dược và một số dược phẩm khác là công cụ chữa bệnh được các bác sĩ asu sử dụng rộng rãi tại Lưỡng Hà cổ đại. Thông qua việc sử dụng thực nghiệm để tìm ra các đặc tính của các thành phần của dược phẩm có thể sử dụng, các bác sĩ dùng chúng phục vụ cho việc điều trị, một số dược phẩm khác thì có vẻ phụ thuộc phần nhiều vào sự mê tín và một số ý nghĩa biểu tượng tương đương. Một phiến đất sét chữ hình nêm của người Sumer có niên đại vào khoảng 3000 TCN đã mô tả chi tiết 15 đơn thuốc dược phẩm và những đơn thuốc này, tuy vậy, bị khuyết thiếu về bệnh được chỉ định thuốc hay lượng thành phần trong đó. Thành tố của các đơn thuốc này có nguồn gốc từ thực vật, động vật và khoáng chất: natri chloride, kali nitrat, sữa, da rắn, mai rùa, cây cassia, cây myrtle, cây asafetida, cỏ xạ hương, gỗ liễu, lê, vả tây, thông chà là. Tất cả các phần của cây (về mặt giải phẫu) đều được tận dụng: cành nhánh, rễ cây, hạt, vỏ cây, nhựa cây.



Có hai phương pháp sử dụng thuốc chủ yếu ở Lưỡng Hà: dùng ngoài (băng gạc, bôi, ngâm nước bồn) hay dùng trong (dưới dạng dung dịch thuốc, thuốc nhét, thuốc đạn, thuốc xổ). Nhìn chung, có vẻ như Nội khoa chủ yếu liên quan đến chữa trị các tình trạng bệnh xảy ra bên trong cơ thể, bao gồm các vấn đề với hệ hô hấp, hệ dạ dày - ruột hay hệ thận - tiết niệu và bệnh ở trực tràng. Người Lưỡng Hà không quá hiểu rõ mối liên hệ chính xác giữa bệnh và quy trình chữa bệnh.



Một đơn thuốc từ thời Babylon kê cho một vết thương vùng mặt được viết như sau: “Nếu mà một người đàn ông bị đấm vào mặt, hãy nghiền cùng nhau dầu thông, nhựa thông, tuyết tùng núi, hoa cúc, bột Inninnu, trộn cùng sữa và bia trong một cái chảo bằng đồng rồi bôi lên da của anh ta, nhờ đó anh ta có thể sẽ hồi phục”.



Đôi khi nhiều dạng thuốc khác nhau được sử dụng cùng lúc để trị một tình trạng bệnh nhất định, tựa như một ca bệnh “đau như xuyên thủng dạ dày” sau: “Bạn nghiền nuhurtu ("asafoetida") (và) tīyatu (một loại cây) (và) anh ta uống cùng với bia. Bạn đun sôi šammu peṣû ("loại cây màu trắng") trong dầu (và) rồi bạn đổ vào hậu môn anh ta. Bạn làm nóng lá từ šarmadu (một loại cây), lá từ ašāgu ("acacia") (và) lá từ baltu ("bụi cây gai") trong nước (và) bạn rửa ráy cho anh ta bằng thứ nước đó. Bạn đổ nước ép từ šunû ("cây trinh nữ") (và) nước ép từ kasû ("me") vào hậu môn anh ta. Bạn đun sôi burāšu (một loại bách xù) (và kukru (chất tạo mùi thơm) [. . .] dùng một cái nồi đồng nhỏ, bạn dàn đều (hỗn hợp) lên một mảnh vải (và) bạn băng anh ấy lại bằng mảnh vải đó”.



Hàng nghìn năm nay, cây thuốc phiện đã được biết đến với công dụng giảm đau và khoảng vài thế kỷ gần đây, người ta mới ghi nhận công dụng giảm đau trong phẫu thuật của nó. Cây thuốc phiện ban đầu được trồng ở vùng hạ lưu Lưỡng Hà. Từ khoảng thiên niên kỷ thứ 4, thứ 5 TCN, người Lưỡng Hà cổ đại đã biết dùng cây thuốc phiện do tác dụng gây nghiện của nó. Người Sumer gọi nó là Hul Gil, 'cây của niềm vui', họ truyền bá loài cây này và tác dụng gây hưng phấn của nó cho người Assyria rồi thông qua đó, loại cây và cách sử dụng của nó lần lượt được truyền bá rộng rãi đến người Babylon và người Ai Cập. Cây thuốc phiện có nguồn gốc từ các cây Cannabis sativa, Mandragora spp., Lolium temulentum, Papaver somniferum.



Sinh nở :



Trong thần thoại Lưỡng Hà, người dân tin rằng nữ thần Lamashtu sẽ gây ra cái chết và gây sảy thai khi Người chạm vào bụng của người phụ nữ mang thai. Tương tự vậy, người ta cũng tin rằng ác quỷ Kūbu, hiện thân của những linh hồn chết non, đã gây ra bệnh tật cướp đi mạng sống của những đứa trẻ sơ sinh.



Dân cư Lưỡng Hà đã biết về các loại cây dùng để tránh thai, các loài thực vật và nấm mốc có tác dụng tránh thai hoặc phá thai cũng đã được đề cập trong các văn bản của người Assyria và Babylon, tuy vậy, không có bằng chứng chỉ ra rằng họ đã cố tình sử dụng các loại cây này cho mục đích tránh thai hay phá thai. Người ta biết được rất ít về các quan điểm đạo đức và pháp lý của việc phá thai ở Lưỡng Hà cổ đại. Bộ luật Hammurabi và Luật miền Trung Assyria có ghi chép về hình phạt của một người đàn ông khi làm bị thương một người phụ nữ mang thai, nếu người đàn ông này làm người phụ nữ sảy thai thì hắn ta phải trả tiền phạt và nếu người phụ nữ này mất mạng thì hắn ta phải chịu những hình phạt nghiêm khắc giống như khi hắn giết người.



Về mang thai và sinh con, Y văn của người Lưỡng Hà đề cập đến vấn đề này là “vấn đề của phụ nữ”. Các nữ hộ sinh hỗ trợ bà bầu trong lúc sinh nở và những người thân là nữ cũng có thể có mặt tại đó. Trong lúc sinh nở, bà bầu sẽ được đưa cho vỏ cây để nhai, bụng của họ sẽ được xoa bóp bằng thuốc mỡ và một cây lăn “ma thuật” sẽ được lăn khắp cơ thể họ. Đối với người Sumer và người Akkad, có những nghi lễ nhất định được tiến hành trong lúc sinh nở, có đôi khi là nhằm giải cứu đứa nhỏ đang mắc kẹt trong tử cung của người mẹ. Một số dị tật ở trẻ sơ sinh có thể kể đến là đứa trẻ có hai, ba, bốn hay thậm chí là năm đầu, cùng với các bệnh ở trẻ thường được mô tả trong các bộ văn bản về điềm báo, ma thuật nhưng lại không được đề cập đến trong các văn bản Y học nói về cách chữa trị bệnh. Một đứa trẻ sơ sinh bị dị dạng thì bị coi là điềm xấu, người ta sẽ tiến hành nghi lễ và ném thi thể của đứa bé sẽ xuống sông.



Phẫu thuật:



Nhìn chung, tuy rằng phẫu thuật ngoại khoa thời kỳ Lưỡng Hà khác xa so với những gì chúng ta đã được trải nghiệm ngày nay, ngoại khoa thời kỳ này vẫn được coi là đã có những bước tiến nhất định: dự đoán những điềm báo về bệnh tật của con người thông qua kiểm tra cơ thể, nội tạng của cừu; thực hành thiến ở một số phạm nhân hay nhằm tạo ra những người thái giám/ hoạn quan cho cung điện. Nhằm giảm tỷ lệ tử vong cho những người thái giám thì có lẽ người ta chỉ cắt tinh hoàn chứ không cắt toàn bộ bộ phận sinh dục; gia cụ có thể được tận dụng để phục vụ việc phẫu thuật - một số dụng cụ chuyên dụng khác có thể dùng để khâu vết thương và len là chất liệu thường được dùng để băng, bó vết thương, treo chi gãy, làm tăm bông…; một số loại thuốc giảm đau (rượu, willow, mandrake, henbane, hemp, và cây anh túc) được kê đơn nhằm dùng trong giảm đau răng hay giảm đau trước khi đặt thuốc hậu môn.



Chữa thương:



Quan niệm của người Lưỡng Hà về nguyên nhân của bệnh tật được ghi nhận như sau: nếu ai đó bị bệnh tật mà không phải bị một vết thương nhất định thì nguyên nhân bệnh ở đây là do phạm phải tội lỗi với thần thánh hay là ảnh hưởng của thế lực tâm linh nào đấy, và vì thế, kết quả điều trị xấu có thể không quy về lỗi của asu. Tuy nhiên, đối với những vết thương có nguyên nhân rõ ràng và không thể nhầm lẫn thì người bác sĩ nên có khả năng điều trị bệnh với những phương tiện thô sơ như dao mổ, và nếu người bác sĩ làm tình trạng vết thương tệ hơn thì lỗi này đáng trách giống như là gây ra vết thương ban đầu.



Người Lưỡng Hà biết được ít nhất 2 bước đầu trong ba bước quan trọng chữa trị mọi vết thương: rửa (làm sạch), đặt gạc, và đóng miệng vết thương (washing, applying a plaster, and binding the wound). Asu có hiểu biết về bước thứ 3.



Tuy thời kỳ này đã có sự phát triển khá ấn tượng về mảng ngoại khoa và xử lý vết thương như đã đề cập ở trên, một số điều luật cũng như vấn đề tồn tại đã khiến phẫu thuật không thể có những bước tiến hay đổi mới nào mà vẫn giậm chân tại chỗ. Trước tiên phải kể đến việc thực hành phẫu thuật, trong khi kiểm tra cơ thể và nội tạng con vật thì được, việc mổ xẻ trên người và khám nghiệm tử thi thì không được các bác sĩ thực hiện. Bên cạnh đó, tuy rằng đã có thuốc giảm đau và thuốc sát trùng, các loại thuốc này được đánh giá là không đủ giảm đau hay không đủ vô trùng dành cho phẫu thuật. Quan trọng nhất là sự có mặt của Bộ luật Hammurabi và những ràng buộc của nó đối với người bác sĩ phẫu thuật. Bộ luật nêu chi tiết về định nghĩa phẫu thuật ngoại khoa cũng như hình phạt nếu như phạm sai lầm, trong đó, hình phạt đối với người bác sĩ phẫu thuật thất bại chính là phạt tiền thật nặng và cắt xẻo các bộ phận trên cơ thể nhà phẫu thuật đó.



Tổng Kết - Tiến Bộ Y Học Vùng Lưỡng Hà Cổ Đại:



Mặc dù nền văn minh Lưỡng Hà tồn tại lâu đời cũng tương đương hay thậm chí có khi đã có trước nền văn minh Ai Cập, hiểu biết của chúng ta về Y học Lưỡng Hà lại ít hơn, chủ yếu là bởi vì nguồn tài liệu chữ hình nêm được nghiên cứu ít kỹ lưỡng bằng. Những phát kiến trong Y học ở vùng Lưỡng Hà cổ đại đã có tầm ảnh hưởng lớn không chỉ đối với tri thức Y học của thời đại họ mà còn đối với sự phát triển của y học toàn cầu. Người Lưỡng Hà cổ đại đã xây dựng một hệ thống Y học đáng kinh ngạc dựa trên kiến thức quan sát và truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng các phiến đất sét khắc chữ hình nêm.



Sự Kết Hợp Của Kiến Thức Về Y Học và Thần Học:



Trong bối cảnh xã hội có một niềm tin sâu sắc vào sự can thiệp của các thế lực siêu nhiên, người Lưỡng Hà đã kết hợp kiến thức về Y học với thần học. Họ tin rằng ảnh hưởng của thần thánh có thể là nguyên nhân gây bệnh và cũng có thể là phương pháp chữa trị. Điều này đã dẫn đến việc sử dụng các bài lễ và nghi lễ thần học như một phần quan trọng của quá trình điều trị. Tuy nhiên, người Lưỡng Hà cũng đã có kiến thức thực tiễn về thảo dược và các phương pháp Y học tự nhiên. Việc họ gán cho mỗi bệnh là một vị thần riêng biệt tác động, và có những ghi chép về phương thức điều trị bệnh đó là những hệ thống đặt tên bệnh tật sơ khai nhất, cho thấy sự kết hợp độc đáo giữa Y học và thần học trong nền văn hóa của họ.



 



Khám Phá Và Điều Trị Bệnh:



Chúng ta đã thấy rằng người Lưỡng Hà đã tiến xa trong việc nhận biết và điều trị các bệnh. Bằng cách sử dụng các công cụ Y học đơn giản, họ đã cố gắng xác định nguyên nhân gây bệnh. Họ cũng sử dụng phương pháp trị liệu đa dạng, từ sử dụng thuốc thảo dược đến việc áp dụng thuốc trực tiếp lên vùng bị ảnh hưởng. Một điểm đáng chú ý là họ thường áp dụng nhiều phương pháp chữa trị cùng lúc, có thể cho thấy sự tiến bộ trong việc xem xét nhiều khía cạnh của một tình trạng bệnh, và họ cũng đã có nhận thức nhất định về độ phức tạp của các bệnh.



Phương pháp điều trị của họ có vẻ phức tạp và đôi khi dường như là hỗn độn, tuy nhiên, điều này đã thể hiện được sự thử nghiệm liên tục và sự quyết tâm của họ trong việc cải thiện tình trạng sức khỏe bệnh nhân. Cách họ sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau, thậm chí đôi khi sử dụng đồng thời, có thể phản ánh sự tiếp cận đa dạng trong điều trị bệnh.



Những người hành nghề Y khoa được chia thành nhiều nhóm và có những cách tiếp cận khác nhau trong thực hành khám chữa bệnh, họ đều dành thời gian khá lâu (10-12 năm) để được hành nghề Y và đều được người dân tôn trọng. Những người thầy thuốc thời kỳ Lưỡng Hà có phòng làm việc riêng, ở đó có giường bệnh, thiết bị phẫu thuật và thuốc điều trị. Phụ nữ và đàn ông đều được làm bác sĩ, dù cho số lượng nữ giới chỉ “đếm được trên đầu ngón tay của một bàn tay”, đây vẫn được coi là sự tiến bộ về nhận thức của con người thời kỳ cổ đại.



Sinh nở trong Y học Lưỡng Hà cổ đại không được tiến hành tại các bệnh viện hay phòng mổ như ngày nay, mà thường diễn ra tại nhà và được trợ giúp bởi các hộ sinh, những người hộ sinh này không có bằng cấp chính thức. Họ thường sử dụng nước nóng để giảm đau và làm dịu cơ tử cung. Người dân tin rằng các vị thần và quỷ dữ có thể gây sảy thai và bệnh tật cho mẹ và trẻ sơ sinh. Họ có sự hiểu biết về các loại cây và thực phẩm có khả năng tránh thai hoặc phá thai, nhưng không có bằng chứng cụ thể cho thấy họ đã sử dụng chúng với mục đích tương tự. Về pháp luật, việc làm tổn thương phụ nữ mang thai hoặc làm sảy thai bị xem xét nghiêm khắc, với hình phạt tương tự như tội giết người.



Một phần quan trọng của phẫu thuật trong Y học Lưỡng Hà là việc sử dụng gia cụ và công cụ. Họ tận dụng những gì có sẵn xung quanh, bao gồm các dụng cụ chuyên dụng như dao mổ và len làm từ sợi thô. Những dụng cụ này không chỉ được sử dụng để cắt, mổ, và khâu vết thương mà còn để làm băng bó vết thương, treo chi gãy, và nhiều công việc khác. Tuy có những tiến bộ, những cách tiếp cận y học và phẫu thuật ở thời kỳ này còn hạn chế, đặc biệt là do những quy định của Luật Hammurabi, nơi xác định rõ hình phạt cho các bác sĩ phẫu thuật thất bại.



Đặc biệt, Y học Lưỡng Hà đã có kiến thức về thuốc giảm đau và thuốc sát trùng. Các loại thuốc như rượu, cây liễu, cỏ henbane, cây thuốc phiện và nhiều loại thuốc khác đã được sử dụng để giảm đau và ngăn ngừa nhiễm trùng trước khi tiến hành phẫu thuật.



Sự Phát Triển Của Y Học Lưỡng Hà Cổ Đại:



Từ những diễn biến chúng ta đã thấy về Y học Lưỡng Hà cổ đại, có thể suy đoán được rằng họ đã phát triển Y học từ một hệ thống dựa vào kiến thức thần học và kinh nghiệm thực tiễn đến một hệ thống Y học có căn cứ hơn, với kiến thức về thảo dược và cách chữa trị bệnh được sắp xếp và truyền đạt một cách hệ thống. Sự phát triển này có thể thể hiện sự tiến bộ trong tư duy khoa học và khả năng quan sát của họ.



 



Tài liệu tham khảo:



Dự án Giới thiệu Y học Assyria: Chăm sóc Sức khỏe dành cho Đức vua (Introducing Assyrian Medicine: Healthcare Fit for a King).



 


aaaaaaaa

Những phiến đất sét về y học của nền văn minh cổ đại

10/10/2023
1.420 lượt xem

 NIÊN ĐẠI 1900 - 1600 TCN



Những phiến đất sét về y học của nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại



Trần Lê Hoàng 



Mở đầu



Thư viện Hoàng gia Ashurbanipal là nơi lưu giữ hàng chục nghìn tấm bảng đất sét (clay tablet), hay phiến đất sét chứa các văn bản chữ hình nêm (chữ Akkad: chữ ra đời thay thế chữ Sumer vào khoảng 2000 năm TCN). Thư viện thuộc sở hữu của vua  Ashurbanipal (685 – 627 TCN) , vua của vương quốc Assyria nằm ở phía Bắc vùng Lưỡng Hà, nay thuộc địa phận phía Bắc I Rắc và phía Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ.



Sir Austen Henry Layard, một nhà khảo cổ học người Anh, phát hiện những tàn tích của Thư viện Hoàng gia Ashurbanipal vào thập niên 1850 khi ông tham gia dự án khai quật thành phố cổ Nineveh của Bảo tàng Anh. Thư viện bao gồm hai căn phòng nhỏ nằm bên trong cung điện hoàng gia của vua Ashurbanipal với kích thước (8m × 6m) và (7m × 6m). Bên ngoài mỗi căn phòng là bức phù điêu khổng lồ với hình ảnh của vị thần cá Dagon đang đứng canh gác. Công việc khai quật diễn ra không liên tục cho đến những năm 1930.



Trong suốt quá trình khai quật, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy tổng cộng hơn 30.000 tấm bảng đất sét và vô số mảnh vỡ của chúng trong thư viện. Các tấm đất sét lớn nhất khá phẳng, có kích thước 23cm × 15cm. Trong khi đó, những phiến đất sét nhỏ nhất trông hơi lồi và dài không quá 2cm. Nội dung của các tài liệu khá đa dạng, bao phủ nhiều chủ đề khác nhau như y học, thần thoại, lịch sử, tôn giáo, ma thuật, khoa học, thơ ca và địa lý, tất cả đều hỗ trợ các nhà khoa học hiểu rõ hơn về nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại. Hiện tại, hầu hết các hiện vật này đang được trưng bày tại Bảo tàng Anh. 





Hình ảnh Thư viện hoàng gia Ashurbanipal (Nguồn: kyluc.vn)



Các vị thần y học của người Lưỡng Hà cổ đại 



Niềm tin vào các vị thần là nền móng cho mọi khía cạnh trong cuộc sống của người Lưỡng Hà cổ đại. Trong thực hành y khoa, người dân đặt niềm tin vào nữ thần chữa bệnh Gula. Bà là vị thần được cho rằng đã hướng dẫn các bác sĩ trong điều trị các vấn đề sức khỏe trong hơn 2000 năm. Không những vậy, nhiều khía cạnh của y học sau này gắn liền với Hy Lạp được cho rằng khởi nguồn tại Lưỡng Hà.   



 





Hình ảnh nữ thần Gula (nguồn:wikipedia) 



 



Người được cho là con trai của nữ thần Gula, Ninazu, vị thần của thế giới ngầm, rắn và thảm thực vật. Tuy hiếm thấy bằng chứng cho rằng ông có liên quan đến y học, tên của ông theo tiếng Sumer lại có nghĩa là God Healer (thần chữa trị). Ngoài ra, hình tượng con rắn quấn quanh cây trượng vốn là biểu tượng của ngành y được cho rằng bắt nguồn từ ông. 



 





Hình ảnh thần Ninazu cầm cây đinh ba (nguồn: The British Museum)



 



Các bác sĩ ở Lưỡng Hà cổ đại 



Các bác sĩ ở Lưỡng Hà được xếp vào tầng lớp được tôn trọng và có học thức nhất Lưỡng Hà cổ đại. Họ được đào tạo trong khoảng thời gian dài, bảo mật và gắn liền với các ngôi đền chữa trị. 



Các bác sĩ được chia thành 2 dạng chính: asu và ashipu. Asu là người hành nghề y học trị liệu, bao gồm điều trị bằng thảo dược và phẫu thuật. Ngược lại với asu là ashipu, bác sĩ điều trị dựa trên các hiện tượng “siêu nhiên” như bói toán, tín ngưỡng. Theo văn bản của Bộ luật Hammurabi thì ashipu còn được chia thành baru (thầy bói): người có khả năng tiên đoán, tiên lượng bệnh và ashipu: người sử dụng các bùa chú trừ tà ma quỷ và liên lạc với với các vị thần. 





Hình ảnh asu đang chữa trị bằng thảo dược



 



Tuy cùng tồn tại trong 1 thời nhưng có vẻ như không có nhiều sự cạnh tranh giữa 2 dạng bác sĩ. Kể cả khi vị vua bị bệnh thì sẽ tham khảo ý kiến của cả hai dạng bác sĩ. Mặc dù theo các học giả thời hiện đại đôi khi đề cập đến ashipu là một 'bác sĩ phù thủy' và asu là một 'bác sĩ y khoa’, người Lưỡng Hà dành cho cả hai sự tôn trọng như nhau. Không có gợi ý nào trong các văn bản cổ rằng cách tiếp cận này hợp pháp hơn cách tiếp cận kia. Trên thực tế, cả hai dạng bác sĩ dường như có tính hợp pháp như nhau. Sự khác biệt đáng kể giữa hai dạng bác sĩ là asipu dựa vào các câu thần chú và lời cầu nguyện siêu nhiên, trong khi asu xử lý trực tiếp thông qua các loại dầu và thuốc thảo dược. Tuy nhiên, cả hai dạng bác sĩ chữa bệnh chấp nhận nguồn bệnh siêu nhiên và asu không nên được coi là 'hiện đại' hơn asipu.





Hình ảnh Ashipu chữa trị bằng bùa chú



 



Khái niệm về bệnh tật ở Lưỡng Hà cổ đại 



Mọi bệnh tật đều được coi là do thần thánh hoặc do ma quỷ. Vì vậy, điều thiết yếu là các vị thần và ma quỷ phải thường xuyên được xoa dịu bằng cách thờ cúng đúng cách và đeo bùa hộ mệnh và bùa chú thích hợp. Những điều cấm kỵ phải được công nhận và tôn trọng. 





Hình ảnh Bùa hộ mệnh bảo vệ khỏi quỷ Lamashtu (nguồn: worldhistory.org)



 



Bệnh tật được đưa đến như một hình phạt cho những tội lỗi chống lại thần linh. Nhưng ngay cả khi không có tội lỗi, bệnh tật vẫn có thể do ma quỷ gây ra. Ma quỷ có thể tấn công khi người bệnh “thiếu thận trọng”, tức họ không nhận biết được các điềm báo về bệnh tật trong cuộc sống hằng ngày. Hoặc chúng có thể tấn công thông qua các thầy phù thủy có thể làm phép, khiến ma quỷ xâm nhập vào cơ thể. Ngoài ra ma quỷ có thể  “lây nhiễm” từ người bệnh do đó những người mắc bệnh bị ô uế và phải tránh xa. Các vị thần và ác quỷ khác nhau gây ra những căn bệnh khác nhau và người ta đặc biệt chú ý đến các điềm báo (bao gồm hiện tượng sao, giấc mơ, quan sát sự nhấp nháy của ngọn lửa mới thắp sáng hoặc sự lan rộng của một giọt dầu trên mặt nước, sự hiện diện của động vật hoặc màu sắc,...). cho biết nguyên nhân và tiên lượng bệnh. Họ không có kiến ​​thức đáng kể về giải phẫu hoặc sinh lý học, và việc mổ xẻ người hoặc động vật vì lý do khoa học đã không được thực hiện. Tuy nhiên, họ đã nỗ lực nghiên cứu các cơ quan và chức năng của động vật mà họ đã thuần hóa như gia súc, để tìm hiểu về giải phẫu và cách thức hoạt động của từng cơ quan nhằm cung cấp cho họ kiến ​​thức về những gì có thể làm để cải thiện hoạt động y tế của họ.



Thực hành y học ở Lưỡng Hà cổ đại  



Asu và Ashipu thường đến thăm nhà bệnh nhân để đưa ra ý kiến ​​về cách quản lý phù hợp. Họ ghi nhận những điềm báo quan trọng trên đường đi và trong phòng bệnh, nhưng cũng chú ý đến tình trạng và triệu chứng của bệnh nhân, theo thứ tự có hệ thống từ đầu đến chân.. Các tình trạng bệnh tật được xác định nhìn chung rất mơ hồ và sự nhận biết chủ yếu dựa trên bói toán (điềm báo, giấc mơ, v.v.) nhưng cũng dựa trên quan sát trực tiếp. Bệnh được theo dõi hàng ngày và được đưa ra các tiên lượng đơn giản.  Tài liệu y khoa Lưỡng Hà không có mô tả trường hợp lâm sàng điển hình nào như của y học Hippocrates.



Khi chẩn đoán, điều quan trọng là phải xác định chính xác con quỷ gây ra căn bệnh này , cũng như lý do tại sao con quỷ lại hành động. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tiên lượng bệnh.  Mục đích chính của việc điều trị là loại bỏ con quỷ hay linh hồn tà ác gây ra tình trạng bệnh, hoặc xoa dịu các vị thần đang giận dữ. Sau khi xác định được nguyên nhân thông qua bói toán, các nghi thức như câu thần chú, bùa chú hay bùa hộ mệnh sẽ được đeo. Nếu đó là do 1 con quỷ sẽ bị ashipu trừ tà. Các liệu pháp điều trị bằng thảo được sẽ được kê đơn với rất nhiều loại thuốc. Mặc dù không có văn bản cổ nào của người Lưỡng Hà về kỹ thuật phẫu thuật, nhưng chắc chắn nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau (bao gồm cả công việc nha khoa) đã được thực hiện.



Phí dịch vụ  tùy thuộc vào địa vị xã hội của một người theo thang bậc. Một bác sĩ chủ trì sự ra đời của một quý tộc được trả nhiều hơn so với một lần sinh thông thường, và phong tục này đã được thấy từ lâu trước Bộ luật Hammurabi (c. 1772 TCN) thực hành y tế được hệ thống hóa. Trong khi bác sĩ có thể được trả bằng vàng để trộn một phương thuốc cho một hoàng tử, khoản thanh toán cho việc làm điều tương tự cho một người bình thường có thể là một bát súp hoặc một cốc đất sét. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy các bác sĩ do dự trong việc điều trị cho người nghèo, và các đơn thuốc tương tự đã được đưa ra, với cùng các thành phần, mà không quan tâm đến địa vị xã hội của bệnh nhân. 





 



Các đơn thuốc ở Lưỡng Hà cổ đại 



Thuốc thường được nghiền bởi bác sĩ dưới sự chứng kiến của bệnh nhân, trong khi các câu thần chú được đọc. Một đơn thuốc thời Babylon cho một chấn thương vùng mặt viết: “Nếu một người đàn ông bị bệnh với một cú đánh vào má, hãy giã nhựa thông, dầu thông, cây thánh liễu, cây cúc, bột mì Inninnu; trộn sữa và bia trong một cái chảo đồng nhỏ; phết lên da, băng vào người và anh ta sẽ hồi phục”.



 



 



 





 



Hình ảnh 1 đơn thuốc ở Lưỡng Hà cổ đại (nguồn: worldhistory.org)



 



Thuốc sát trùng được làm từ hỗn hợp rượu, mật ong và nhựa thơm. Phẫu thuật tiên tiến hơn so với các vùng khác vào cùng thời điểm. Người Lưỡng Hà nhận ra rằng rửa vết thương bằng nước sạch và đảm bảo rằng tay của bác sĩ cũng sạch sẽ giúp ngăn ngừa nhiễm trùng và nhanh lành vết thương. Tay và vết thương được làm sạch bằng hỗn hợp bia và nước nóng mặc dù trong ghi chép cho thấy răng thời ấy đã có xà phòng lỏng..



Có một văn bản  dường như đưa ra các chỉ định phá thai.Trên văn bản có viết rằng: “Làm cho một phụ nữ mang thai sảy thai.” Đơn thuốc bao gồm tám thành phần được cho người phụ nữ uống với rượu và uống khi bụng đói. Phần kết thúc với dòng chữ “người phụ nữ đó sẽ sảy thai”



 



 



 





Hình ảnh đơn thuốc gây sảy thai (nguồn: worldhistory.org)



 



Thậm chí còn có một phương pháp thử thai được đề cập trong các văn bản y học, theo đó một số loại thảo mộc được phụ nữ mặc trong quần lót sẽ hấp thụ dịch tiết âm đạo và đổi màu nếu người phụ nữ mang thai. Cũng có những phương pháp đảm bảo khả năng sinh sản, những ngày tối ưu mà người phụ nữ có nhiều khả năng thụ thai hơn và những phương pháp khác để tăng ham muốn tình dục của phụ nữ sau khi sinh.



Niềm tin mạnh mẽ vào hiện tượng siêu nhiên trong thực hành y học 



Các bác sĩ không chịu trách nhiệm nếu các thủ thuật này không hiệu quả. Vì các vị thần là nguyên nhân trực tiếp và cũng là nhân tố chữa bệnh, nên một bác sĩ chỉ có thể chịu trách nhiệm về những gì anh ta hoặc cô ta đã làm hoặc không làm khi thực hiện một thủ thuật. Nếu một quá trình điều trị được chấp nhận được thực hiện chính xác như đã viết, ngay cả khi bệnh nhân không được chữa khỏi, bác sĩ vẫn đang làm đúng.Ngoại lệ duy nhất đối với quy tắc này liên quan đến phẫu thuật, trong đó, nếu ca phẫu thuật thất bại, bác sĩ sẽ bị cắt cụt một tay (hoặc cả hai tay), như được ghi nhận trong điều 218 của Bộ luật Hammurabi . 





Hình ảnh văn bản khắc trên bia đá của bộ luật Hammurabi  (nguồn: wikipedia)



Mặc dù các bác sĩ hiểu tầm quan trọng của việc bắt mạch bệnh nhân để xác định tình trạng sức khỏe của một người và nhận ra tầm quan trọng của thuốc sát trùng và sự sạch sẽ, nhưng họ không bao giờ đánh đồng mạch với hệ thống tuần hoàn, họ cũng không hoàn toàn công nhận sự nhiễm bẩn là mang tới vi trùng gây nhiễm trùng. Vì người ta cho rằng bệnh tật đến từ các tác nhân siêu nhiên, nên các bác sĩ luôn dựa vào các phương pháp điều trị liên quan đến những gì ngày nay người ta gọi là 'chiêm tinh học' và 'bói toán', đặc biệt là tầm quan trọng của các điềm báo. Điềm báo thể hiện tiên lượng người bệnh, như những gì mà ashipu và asu thấy trên đường đến nhà bệnh nhân. Có thể kể tới như khi học thấy 1 con chó đen hay 1 con lợn đen, người bệnh đó sẽ chết. Ngược lại, nếu họ thấy 1 con lợn trắng, người bệnh sẽ sống. Hay các điềm báo dựa trên giấc mơ hoặc những gì bệnh nhân thấy, ví dụ như khi người bệnh thấy 1 con linh dương thì họ sẽ khỏi bệnh. 



 



Kết luận 



Hơn 1 nghìn năm trước thời đại của Hippocrates (người được gọi là cha đẻ của y học phương Tây), trước khi mô tả về việc xử trí và điều trị vết thương trong Iliad, nền y học tại Lưỡng Hà cổ đại đã dần hình thành bao gồm chẩn đoán, ứng dụng thảo dược vào điều trị. So với y học Hy Lạp cổ đại, y học Lưỡng Hà còn dựa nhiều trên niềm tin vào các hiện tượng siêu nhiên. Tuy nhiên, xét cho cùng thì niềm tin vào “tính hợp lý” của các điềm báo cũng tương đồng với niềm tin vào kinh nghiệm của Hippocrates. Và trong những cách tiếp cận y học của người Lưỡng Hà cổ đại một phần cũng phản ánh được y học thời hiện đại. Họ nhận ra và báo cáo các tác động lên cơ thể của các yếu tố như lạnh, rượu bia hay sự nhiễm bẩn. Xét về hướng tiếp cận của các asu, người có xu hướng phát triển mô hình khám chữa bệnh dựa trên các văn bản về đơn thuốc kèm với kinh nghiệm bản thân, cách tiếp cận này đã được phát triển song song với khám chữa bệnh dựa trên các hiện tượng siêu nhiên trong suốt niên đại này. Và đây cũng là bằng chứng cho sự phát triển của y học thời Lưỡng Hà cổ đại dựa trên những phương pháp y tế phức tạp thay vì chỉ đơn thuần là chữa bệnh bằng trừ tà bói toán. Tuy so với y học của nền văn minh Ai Cập, y học thời Lưỡng Hà ít có tác động lên y học Hippocrates, nhưng đáng chú ý là cây quyền trượng có hình con rắn quấn vào, biểu tượng của ngành y thời hiện đại, gắn liền với Hippocrates và người Hy Lạp, nó có nguồn gốc từ Lưỡng Hà.



 



Tài liệu tham khảo:




  1. https://en.wikipedia.org/wiki/History_of_medicine

  2. https://scholarworks.gvsu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1056&context=gvjh

  3. https://www.historyofinformation.com/detail.php?id=2155

  4. http://oracc.museum.upenn.edu/asbp/whatisthelibrary/index.html

  5. https://www.worldhistory.org/article/687/medicine-in-ancient-mesopotamia/


aaaaaaaa

Iry – bác sĩ mắt, tiêu hóa, người chăm lo cho sức khỏe đường ruột của hoàng tộc Ai Cập cổ đại.

10/10/2023
364 lượt xem

Iry – bác sĩ mắt, tiêu hóa, người chăm lo cho sức khỏe đường ruột của hoàng tộc Ai Cập cổ đại.



BS. Phạm Trường Đăng Minh



 



Nền Y khoa của người Ai Cập được dựa trên nền tảng của sự kết hợp của y học chính danh và thực hành tôn giáo. Tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người Ai Cập cổ đại. Thật vậy, vào thời đại này, người giữ chức vụ thầy thuốc đôi khi sẽ kiêm luôn cả nhiệm vụ của một tư tế, cùng với việc thường xuyên sử dụng các câu thần chú, bùa hộ mệnh và hình ảnh liên quan đến các vị thần như thần Horus và thần Seth. Đời sống và quan điểm tôn giáo của người Ai Cập đã giúp hình thành sự hiểu biết của họ về cơ thể con người, cách thức hoạt động và cách chữa bệnh cho con người.



 



“Về kiến thức y khoa thì người Ai Cập đã vượt xa toàn bộ thế giới”, Homer đã từng viết trong cuốn Odyssey, là một trong hai thiên sử thi được cho là đã từng được biên soạn cách nay 3000 năm. Nghe thì có vẻ xa xôi, nhưng thực ra thời của Homer còn gần với thời hiện đại chúng ta hơn so với thời của ông với thời của Pha-ra-ông đầu tiên của Ai Cập. Nền văn minh Ai Cập đã kéo dài khoảng chừng 7000 năm tuổi. Các dân cư của sông Nile này đã tạo nên một trong những nền văn minh hung vĩ nhất trong lịch sử nhân loại. 



 



Nhắc đến nền văn minh Ai Cập cổ đại thì lại không thể không nhắc đến các vị bác sĩ thời đó. Herodotus là một nhà sử học Hy Lạp, người đã từng viếng thăm Ai Cập vào năm 2500 trước, đã cung cấp cho chúng ta thông tin rằng toàn bộ các bác sĩ Ai Cập đều là các bác sĩ chuyên khoa: “Họ thực hành một nền y học chuyên sâu; mỗi bác sĩ chỉ điều trị một bệnh lý nhất định, không hơn. Do đó toàn bộ đất nước có rất nhiều bác sĩ, một số điều trị các bệnh lý ở mắt, một số điều trị bệnh lý ở đầu, một số khác chuyên về răng, về đường ruột, và một số chuyên về bệnh lý toàn thân. 



 



Vị bác sĩ Ai Cập xa xưa nhất mà chúng ta biết cũng là một bác sĩ chuyên khoa. Ông ta đã phục vụ Pha-ra-ông với nhiều vai trò như bác sĩ, thủ tướng, kiến trúc sư trưởng, nhà thiên văn học trưởng, pháp sư hoàng gia và nhiều chức vực khác. Tên của ông ấy là Imhotep. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta không có nhiều thông tin về các kĩ năng và việc thực hành y khoa của Imhotep. Nhưng chúng ta biết rằng ông ta là một bác sĩ của hoàng tộc, là một vị trí chỉ được trao cho người thầy thuốc đại tài nhất Ai Cập. Vào thời đại đó, không có sự phân chia rạch ròi giữa các lĩnh vực y khoa, tôn giáo và phép thuật. Imhotep vừa là giáo sĩ, vừa là pháp sư, kiêm thầy thuốc. Có lẽ ông cũng đã từng tự xưng rằng mình có thể làm phép thuật để chữa bệnh, nhờ vào việc thờ phụng các vị thần chữa lành. Chúng ta đã tìm thấy những bằng chứng khảo cổ học cho thấy rằng không lâu sau thời của Imhotep, người Ai Cập đã bắt đầu sử dụng các thuật ngữ như “bác sĩ” và “pháp sư” một cách độc lập với nhau. Do đó có thể nói, hai lĩnh vực này đã dần được tách biệt và cùng tồn tại song song với nhau, mặc dù người Ai Cập vẫn xem chúng luôn có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Những người thuộc tầng lớp nghèo trong xã hội thường sẽ tìm đến những câu thần chú, bùa phép của các pháp sư. Mặt khác, những thương gia và giai cấp quý tộc thường sẽ được phục vụ bởi các bác sĩ lành nghề.



 



Thời của Herodotus ở khoảng giữa từ thời Pha-ra-ông Menes với thời chúng ta. Lúc đó, ông đã từng cho rằng Ai Cập là một vùng đất cực kì cổ đại. Chúng ta không thể dùng nhận định của ông về nền y khoa Ai Cập vào năm 450 trước Công Nguyên để áp dụng cho toàn bộ lịch sử phát triển y khoa Ai Cập. Chắc chắn rằng, đã từng có các bác sĩ đa khoa ở Ai Cập, và cũng có các bác sĩ chuyên khoa. Nhưng các chứng cứ khảo cổ học cho chúng ta biết rằng hệ thống các bác sĩ chuyên khoa ở Ai Cập do Horodotus phát hiện có thể đã hình thành từ những giai đoạn đầu của nền văn minh này. Các chữ tượng hình được chạm khắc đã nhắc đến nhiều chuyên khoa y học khác nhau vào những triều đại đầu tiên, nhưng đôi khi một bác sĩ có thể thực hành cùng lúc nhiều chuyên khoa. 



 



Điển hình là bác sĩ Iry, là người quản lý hội đồng bác sĩ của một trong số các Pha-ra-ông của Triều đại thứ tư, vào khoảng năm 2500 trước Công Nguyên. Ông là bác sĩ mắt đầu tiên được biến đến cho đến ngày nay. Thời của Cheops, ông cho xây dựng các ngôi mộ tại vùng Giza dành cho gia đình và những người hầu của mình. Ngày nay, chúng ta đã khai quật được hai khu vực vô cùng rộng lớn với nhiều ngôi mộ khác nhau tại phía đông và phía tây của Kim tự tháp Cheops. Tại đây, tấm bia của Iry được tìm thấy vào ngày 23 tháng 01 năm 1926 bởi nhà khảo cổ học người Đức, Hermann Junker (1877 – 1962) tại một ngôi mộ ở phía Tây của Kim tự tháp Cheops. Junker cũng là một nhà Ai Cập học, và cùng với những kiến thức của mình, ông là người đầu tiên giải mã được những văn tự trong tấm bia của Iry. Thêm vào đó, bác sĩ người Đức, Rembert Antonius Watermann, là người đầu tiên ghi nhận và vẽ lại những chữ tượng hình trên tấm bia của Iry. Nhờ đó mà ngày nay chúng ta mới có thêm những thông tin vô cùng thú vị về vị bác sĩ Ai Cập này và những thực hành y khoa lúc bấy giờ.



 





Bia mộ của Iry.





Bản vẽ của Watermann, phác họa lại những hình ảnh và ký tự trên tấm bia mộ của Iry.



 



Bia mộ trên cho thấy Iry đang ngồi trên chiếc ghế ở trước bàn nghi lễ. Các văn tự cho thấy Iry là bác sĩ mắt, tiêu hóa, người chăm lo cho sức khỏe đường ruột của hoàng tộc Ai Cập cổ đại. Ông còn là người pha chế “bm”, là một loại thuốc được cho là vô cùng quan trọng, nhưng tên của bài thuốc này cho đến nay vẫn chưa được giải mã và ông cũng đã biết về các loại dịch trong cơ thể. Một vị bác sĩ khác cũng trong thời kì này vừa là nha sĩ, vừa là bác sĩ tiêu hóa cho hoàng tộc. Nha khoa có thể đã được thực hành từ các thời kì sớm của lịch sử Ai Cập, vì những hàm răng được tìm thấy trong những ngôi mộ của Triều đại thứ tư có những dấu hiệu cho thấy chúng đã từng được phẫu thuật để dẫn lưu dịch mủ từ các túi áp xe nằm ở dưới răng cối số một. 





Giải nghĩa các văn tự Ai Cập trên bia mộ của Iry.



 



Người Ai Cập không hề vứt bỏ một thứ gì thuộc về họ. Thời gian có thể đã phá hủy nhiều sản phẩm văn hóa của Ai Cập, nhưng một số lượng lớn vẫn còn tồn tại ở đó. May mắn thay, đa phần các văn bản y khoa của họ được lưu truyền đến nay đều còn nguyên vẹn. Chúng mở đường cho chúng ta quay về một thời kì cùng với một nền nghệ thuật chữa bệnh được thực hành dọc theo vùng đất cạnh sông Nile hàng ngàn năm về trước. Nhãn khoa có lẽ là một trong những chuyên khoa được phát triển rất mạnh vào thời kì Ai Cập cổ đại. Những văn bản Ai Cập cổ cần được xem xét và giải mã để chúng ta càng hiểu thêm về nền y học của thời kì hùng vĩ này.





 



Tài liệu tham khảo: 




  1. Tashia Dare. History of Applied Science & Technology. Chapter 3 – Ancient Egyptian Medicine. 2017.

  2. Robert Silverberg. The dawn of medicine. 1966.

  3. Sibylle Katharina Scholtz. Iry. Egypt 2400 BCE: Iry – The First Known Ophthalmologist. 2022.


aaaaaaaa

Imhotep- Vị bác sĩ, nhà tư tế, người sau đó được thần thánh hóa là vị Thần y Ai Cập

10/10/2023
938 lượt xem

Niên đại c. 2600 TCN



 Imhotep- Vị bác sĩ, nhà tư tế, người sau đó được thần thánh hóa là vị Thần y Ai Cập



Phạm Nguyễn Như Phương



Trần Hoàng Nguyên Bình



Imhotep (2650-2600 TCN)





Tượng Imhotep tại bảo tàng Louvre (Nguồn: Wikipedia)



Imhotep là một học giả Ai Cập sống vào thế kỷ 27 trước Công Nguyên (2650-2600 TCN) trong thời kỳ đồ đồng sớm của Ai Cập cổ đại. Thời kỳ này đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của Ai Cập và là giai đoạn đầu tiên của Cổ Vương quốc Ai Cập, khi đất nước này đạt đến đỉnh cao của nền văn minh. Cổ Vương quốc thường được xem là kéo dài từ Vương triều thứ Ba đến Vương triều thứ Sáu (2686-2181 TCN).  Imhotep là một polymath (chuyên gia đa lĩnh vực) với kiến thức về kiến trúc, nhà thiết kế, chiêm tinh, hiền triết và cả y khoa. Ông đã phục vụ cho vị vua đầu tiên của Vương triều thứ Ba, Djoser (khoảng 2691 đến 2625 TCN). Ông giữ chức vụ tể tướng của pharaoh và là thầy tế cao cấp của vị thần mặt trời Ra tại Heliopolis.



Imhotep được coi là một trong những kỹ sư, kiến trúc sư và bác sĩ đầu tiên trong lịch sử được biết đến với đầy đủ tên họ. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc phục vụ nhiều đời Pharaoh và đã được thể hiện như một phần tượng của pharaoh và trở thành vị thần tiên tri và y học trong văn minh Ai Cập.



Kiến trúc sư của kim tự tháp bậc thang (kim tự tháp Djoser)



Ai Cập có tổng cộng 138 kim tự tháp đã được khám phá cho đến gần đây. Trong số đó, kim tự tháp Djoser, hay còn được gọi là kim tự tháp bậc thang, là kim tự tháp lâu đời nhất. Nó được xây dựng từ khoảng năm 2630 đến năm 2611 trước Công Nguyên tại Vương triều thứ ba. Kim tự tháp Djoser và khu phức hợp xung quanh được thiết kế bởi kiến trúc sư Imhotep, và chúng được coi là những công trình bằng đá nguyên khối cổ nhất trên thế giới.





Kim tự tháp của Djoser (Nguồn: Wikipedia)



Y học Ai Cập cổ đại



Y học trong Ai Cập cổ đại là một diễn biến của một nền văn minh tiên tiến, chứ không được thực hành bởi các bác sĩ phù thủy như các bộ tộc nguyên thủy, với một sự kết hợp giữa ma thuật, phương thuốc từ thảo dược và niềm tin mê tín. Điều này được Homer ghi nhận trong cuốn Odyssey khi ông nói: "Ở Ai Cập, những người làm y học khéo léo hơn bất kỳ ai trên thế giới".



Những người Ai Cập xưa tin rằng cơ thể con người được cho là sinh ra với trạng thái khỏe mạnh, và chỉ bị bệnh hoặc chết là do sự tác động của một yếu tố ngoại lai. Trong trường hợp bị thương hoặc nhiễm giun, yếu tố này là rõ ràng và phương pháp điều trị được chỉ định là hợp lý. Vì họ không nhận thức về vi sinh học, các bệnh nội tiết nên được cho là do một lực lượng siêu nhiên thuộc về các vị thần ác quỷ, sự trừng phạt từ thượng đế hoặc các quy trình ma thuật. Bác sĩ được yêu cầu phải trừ tà trước khi thực hiện phương pháp điều trị thực tế.



Theo nhà nghiên cứu Ai Cập, Bob Brier trong cuốn sách Ai Cập huyền bí (Ancient Egyptian Magic) của mình có viết “Một số bằng chứng cho thấy loại bệnh tật sẽ quyết định phương pháp để điều trị. Nếu nguyên nhân đã được biết, chẳng hạn như trong trường hợp gãy xương và bị cá sấu cắn, thì việc điều trị sẽ không dựa vào phép thuật. Ví dụ, đối với vết cắn của cá sấu, một điều dễ nhận ra là khâu kín vết thương và đắp vạt da lên đó. Tuy nhiên, nếu căn bệnh là một thứ gì đó chẳng hạn như sốt, mà người Ai Cập không biết nguyên nhân, thì nó có thể được cho là do ma quỷ hoặc ma thuật độc hại.”



Mặc dù họ có hạn chế về kiến thức về nguyên nhân của các bệnh, nhưng việc nghiên cứu giải phẫu học và sinh lý của họ đã tiến bộ rất nhiều. Không có nghi ngờ, điều này là do việc họ thực hiện ướp xác, trong khi các quốc gia khác thường thiêu xác trong thời đại đó. Ví dụ, quá trình làm trống sọ thông qua các lỗ mũi bằng một cái móc dài chắc chắn không thể được phát minh mà không có kiến thức tốt về giải phẫu đầu và não. Trong y học hiện đại của chúng ta, rất nhiều ca phẫu thuật não đang được thực hiện thông qua con đường này. Họ có được kiến thức tốt về màng não, dịch não tủy và các cơ chế chấn động và đập nhịp, và nhận ra rằng não là trụ cột của việc điều khiển cơ thể.



Bộ Ebers Papyrus mô tả vị trí của tim một cách chính xác, và mô tả một số rối loạn của nó, như nhịp tim không đều. Các bác sĩ Ai Cập nhận ra tim là nguồn gốc của các mạch máu. Họ nhận thức được rằng các mạch máu hình thành một hệ thống nối mở, có nơi mở ra để hấp thụ thuốc, loại bỏ các chất thải, phân phát không khí và các chất tiết và bài tiết cơ thể, trong sự nhầm lẫn giữa các mạch máu và các đường đi khác như ống tiểu.



Sinh lý tuần hoàn máu được chứng minh trong tư liệu Edwin Smith Papyrus, kèm theo coi trọng giữa sự liên quan với trái tim và nhận thức về tầm quan trọng của nhịp tim. Họ cũng biết rằng máu cung cấp từ trái tim đến tất cả các cơ quan trong cơ thể. Tuy nhiên, họ không thể phân biệt giữa mạch máu, dây thần kinh, gân và đường thông đã hạn chế sự hiểu biết toàn diện về sinh lý tuần hoàn.



Từ nhà tư tế đến nhà y học đầu tiên trong lịch sử



Hãy cùng nói thêm về vai trò chính của Imhotep, một nhà tư tế. Trong thời đại Ai Cập cổ xưa thì nhà tư tế luôn đóng giữ một vai trò quan trọng, họ là những người truyền lại lời của Chúa, thờ phụng trời đất và những vị thánh tạo ra con người. Các tư tế thực hiện các nghi thức hằng ngày, trong những ngôi đền và dưới cái tên của đức vua vĩ đại. Với địa vị tư tế, Imhotep được thực hiện và ghi chép lại những ghi nhận của bản thân, đồng thời phát triển và tìm tòi thêm những điều bản thân đạt được. Nhưng còn hơn cả một tư tế, ông vượt qua những định kiến tâm linh thời bấy giờ, những ý tưởng của ông về y khoa xứng đáng là những khái niệm đầu tiên của nhân loại. Ông đã dẫn nhân loại đi những bước chân đầu tiên thoát khỏi ma thuật, về sự trừng trị của chúa, lời nguyền rủa để đến với ánh sáng y học, hiểu về bệnh tật cũng như là bản thân loài người. Mặc dù vẫn chưa thể thoát khỏi đám sương mù thời cổ đại, khả năng thiên tài của ông đã cho ông cái nhìn thoáng qua về cái được gọi là khoa học y khoa. 



Imhotep được coi là người sáng lập y học Ai Cập và là tác giả của một luận án y học nổi tiếng không có yếu tố ma thuật. Ông đã hành nghề y và viết về chủ đề này từ hơn 2.200 năm trước khi Hippocrates, cha đẻ y học hiện đại, được sinh ra.



Imhotep được cho là tác giả của tác phẩm "Edwin Smith Papyrus," một bản ghi y tế của Ai Cập chủ yếu liên quan đến phẫu thuật, trong đó có khoảng 100 thuật ngữ giải phẫu và mô tả 48 loại thương tích và cách điều trị chúng. Bản ghi y tế Edwin Smith có những quan sát về giải phẫu, các trường hợp bệnh và phương pháp phục hồi. Nó được cho là đã được viết vào khoảng năm 1700 trước Công Nguyên, nhưng có thể được coi là một bản sao của các văn bản từ một nghìn năm trước đó.





Văn bản giấy cói Edwin Smith (Nguồn: Wikipedia)



Với công việc là kiến trúc sư của kim tự tháp bậc thang ở Saqqara, ông đã chứng kiến nhiều trường hợp gãy xương và những người đàn ông bị thương do ngã khi xây dựng công trình kiến trúc đồ sộ này. Cuộn giấy cói phẫu thuật Edwin Smith mô tả chuyên sâu đề cập chủ yếu đến chấn thương và phẫu thuật. Bốn mươi tám trường hợp cụ thể đã được ghi lại. Việc thăm khám lâm sàng được nêu trong giấy Edwin Smith Papyrus rằng việc hỏi bệnh là bước đầu tiên. Các bác sĩ cổ đại cũng biết về gõ, như là bước thứ ba trong quá trình khám bệnh của các bác sĩ hiện đại. "Ngài nên kiểm tra bụng của anh ta, và gõ vào ngón tay" và "đặt bàn tay của ngài lên bệnh nhân và gõ". 



Các trường hợp chấn thương đều bắt đầu với một tiêu đề mô tả nội dung tiếp theo, chẳng hạn như: “Hướng dẫn liên quan đến vết thương trên đỉnh lông mày.” Sau đó là chi tiết về việc kiểm tra bệnh nhân, tiếp theo là chẩn đoán. Bob Brier cũng lưu ý, “Trong trường hợp này, bác sĩ được yêu cầu định hình rõ vết thương và sau đó liệu anh ấy có thể điều trị nó hay không. Thực tế có ba điều anh ấy có thể nói: (1) 'Một căn bệnh mà tôi sẽ chữa trị'; (2) ‘Một căn bệnh mà tôi sẽ cố chữa’; và (3) ‘Một căn bệnh không thể điều trị’. Có 3 trường hợp trong số 48 trường hợp được thảo luận trong giấy Smith Papyrus được cho là không hy vọng. Ở đây chúng ta cũng thấy được khái niệm về tiên lượng cũng như điều trị đã được đề cập. Các bác sĩ Ai Cập cũng mô tả những căn bệnh không thể chữa trị là “một căn bệnh không thể làm gì được nữa”. Người Hy Lạp sau này đã viết về sự khôn ngoan của việc biết rõ lúc nào là nên dừng lại.



Giấy cói cũng nêu chi tiết về cách đóng vết thương bằng chỉ khâu, ngăn ngừa và chữa nhiễm trùng bằng mật ong, cũng như các khuyến nghị về bất động những người bị chấn thương ở đầu và tủy sống cũng như các chấn thương khác ở phần dưới cơ thể đều được mô tả. Các bác sĩ đã sử dụng băng, nẹp, thạch cao, băng và chỉ khâu. Họ cũng khuyên dùng thuốc đặt trực tràng, băng thảo dược, thụt tháo và dầu hải ly. Vàng được dùng để buộc răng và áp xe trên mặt được rạch và dẫn lưu. Nha đam được sử dụng cho bệnh ngoài da.



Nhiều bản giấy cói papyrus liệt kê các đơn thuốc dùng để điều trị các bệnh lý răng miệng, như viêm nướu, răng lung lay, sâu răng và viêm mủ. Các lỗ phát sinh từ phẫu thuật để thoát mủ dưới răng hàm thứ nhất được tìm thấy trên xương hàm của một xác ướp từ triều đại thứ 4 (2625 - 2510 trước Công nguyên). Một chiếc răng lung lay được gắn cố định bằng một khung dây vàng với một chiếc răng khỏe mạnh kế cận đã được phát hiện trên một xác ướp khác từ cùng triều đại ở Giza. Răng giả giữ một cây cầu trên hàm trên bằng một dây bạc cũng đã được tìm thấy trong kỷ nguyên muộn (Hy Lạp-Rôma). Nhổ răng, điều trị loét miệng và xử lý lệch hàm đã được đề cập trong các bản giấy cói Edwin Smith và Ebers.



Thần y Ai Cập



Trong thời kỳ đỉnh cao của sự nghiệp y học, Imhotep đã thành lập trường học đầu tiên dạy các phương pháp chữa trị cho các vết thương tại Memphis, Ai Cập. Trường y học của Imhotep cùng với địa điểm tôn giáo liên quan đã tồn tại và phát triển hàng ngàn năm. Kể từ triều đại đầu tiên (3150 - 2925 trước Công nguyên), các viện y học gọi là "peri-ankh" hoặc "những ngôi nhà của sự sống" đã tồn tại. Một trong những viện danh giá nhất là viện Imhotep tại Memphis đã đạt được danh tiếng quốc tế đặc biệt nhờ thư viện của nó cho đến sau Công nguyên.



Ngoài ra, Imhotep cũng được biết đến là một trong những người đóng góp quan trọng vào quy trình giải phẫu và ướp xác của Ai Cập cổ đại. Những phương pháp ướp xác của người Ai Cập cổ đã chứng minh hiểu biết của họ về giải phẫu. Vị trí ngôi mộ của Imhotep tại Saqqara vẫn chưa được xác định, nhưng ông đã được thần thành hóa và tôn thờ như một vị Thần y trong văn hóa Ai Cập, và đền thờ của ông là một trung tâm truyền dạy y thuật cho những người tôn thờ ông.



 



Tài liệu tham khảo




  1. https://www.journeytoegypt.com/en/blog/imhotep

  2. https://suckhoedoisong.vn/imhotep-vi-bac-si-dau-tien-trong-lich-su-the-gioi-16946801.htm  

  3. https://www.worldhistory.org/imhotep/ 

  4. https://study.com/learn/lesson/imhotep-biography-medicine-architecture.html 

  5. https://en.wikipedia.org/wiki/Pyramid_of_Djoser 

  6. https://www.arabworldbooks.com/en/e-zine/medicine-in-ancient-egypt-part-1-of-3 

  7. https://www.consultant360.com/article/imhotep-physicianarchitect-who-led-us-magic-medicine

  8. https://en.wikipedia.org/wiki/Edwin_Smith_Papyrus 

  9. https://www.albanyinstitute.org/ancient-egyptian-art-and-culture?file=tl_files/pages/education/lesson_plans/Ancient+Egypt/PriestsinAncientEgypt.pdf


aaaaaaaa

Sự “Cân bằng” giữa triết lý với Y học cổ truyền Ấn Độ

10/10/2023
1.284 lượt xem

NIÊN ĐẠI 3000 NĂM TCN



AYURVEDA - SỰ “CÂN BẰNG” GIỮA TRIẾT LÝ VÀ Y HỌC CỔ TRUYỀN ẤN ĐỘ



Nguyễn Lâm Phương Phương



 



Mở đầu



Có thể nói, Ấn Độ là một tiểu lục địa đông đúc dân cư, là cái nôi của nhiều nền tôn giáo rực rỡ, là nơi giao thoa của nhiều sắc tộc, ngôn ngữ và văn hoá. Chính vì vậy, các nhà sử học nhận định rằng những truyền thống khoa học và y học phát triển tại Ấn Độ rất phức tạp, phong phú và khác hẳn với các truyền thống y học châu Âu về nhiều mặt cơ bản. Xuất phát từ bên trong sau đó vượt ra bên ngoài biên giới của khối tri thức thần thoại và các trận chiến mang đậm tính sử thi của các vị thần, người chinh phục và giai cấp, y học Ấn Độ đã hình thành qua ba giai đoạn rõ rệt: thời tiền sử, thời Vệ Đà và thời Ayurvedic. 



 



Định nghĩa về Ayurveda



Ayurveda hay còn được gọi Ayurvedic Medicine là một trong những nền Y học cổ truyền lâu đời nhất trên thế giới.  Thuật ngữ “Ayurveda” bắt nguồn từ tiếng Phạn, “Ayur” có nghĩa là “cuộc sống hay trường thọ”, “Veda” có nghĩa là “khoa học hay tri thức”. Vì vậy, Ayurveda nghĩa là “khoa học của cuộc sống”. Theo quan niệm của người Ấn Độ,  Ayurveda chính là kiến thức, sự hiểu biết về sức khỏe và hạnh phúc trong đời sống hằng ngày, nói cách khác đây là một ngành khoa học cổ đại của người Ấn Độ về y học dựa trên ý tưởng bệnh tật là do sự mất cân bằng hay sức khỏe tinh thần bị ảnh hưởng. Ayurveda khuyến khích các biện pháp can thiệp lối sống và liệu pháp để lấy lại sự cân bằng giữa cơ thể, tâm trí, tinh thần và môi trường vì họ tin rằng chính sự cân bằng này giúp ngăn ngừa bệnh tật, đem lại một cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh hơn.



 



Nguồn gốc lịch sử



Ghi chép lịch sử đầu tiên về Ayurveda được tìm thấy trong một quyển kinh của người Aryan có tên là Veda (Vệ-đà), người Aryan di trú đến vùng Trung Á vào khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Vì vậy, tại đây đã xuất hiện nhiều các ngôi trường y khoa cổ xưa tại nhiều thành phố khác nhau. Ở các trường y khoa này, nội khoa và ngoại khoa đồng thời phát triển một cách độc lập với nhau. Nguồn gốc của Ayurveda cũng được tìm thấy trong  Atharvaveda, trong đó có 114 bài thánh ca và những câu thần chú được mô tả như là phương pháp chữa trị huyền diệu cho bệnh tật . Ngoài ra, còn có các ghi chép huyền thoại khác nhau về nguồn gốc của Ayurveda, ví dụ, theo thần thoại đạo Hindu, Brahma - người thầy đầu tiên của vũ trụ, là tác giả của Ayurveda, là một bản trường ca gồm một trăm ngàn bài tụng ca và là cội nguồn của mọi kiến thức liên quan đến thuốc và y học. Hiền giả thần thánh Dhanvantari, người được sinh ra từ vũ trụ đại dương đã mang theo một lọ thuốc thần kỳ giúp các vị thần bất tử, đã mang khối tri thức Ayurvedic dạy cho nhiều lớp trí giả trước khi được viết ra thành chữ. Người ta cho rằng những văn bản cổ xưa còn sót đến ngày nay chỉ là cái bóng của kinh Ayurveda đã mất vốn do đấng Brahma soạn ra.



 



​​





Hình: Người Aryan ở Ladakh. (Nguồn: Tới Ladakh gặp gỡ những Aryan thuần huyết cuối cùng | DoanhnhanPlus.vn)



Ảnh hưởng văn hóa Vệ Đà



Trong lúc không thể xác định được chính xác được ai là tác giả cũng như thời điểm soạn ra kinh Vệ Đà, thì người ta cho rằng Độc thư Vệ Đà (RigVeda) đại diện cho các tài liệu của giai đoạn từ năm 4500 đến 2000 trước CN và Atharvaveda có lẽ bao gồm các tài liệu được soạn ra trong giai đoạn từ năm 1500 đến 1000 trước CN. Trong các lời tụng ca và thần thoại Vệ Đà, thần thánh và thầy thuốc chiến đấu chống lại các thế lực ma quỷ và cử hành các nghi thức có tác dụng như các phương thuốc thần bí chống lại bệnh tật và dịch bệnh. Tất cả các thứ thuốc, kể cả trên một ngàn cây cỏ làm thuốc được coi là có nguồn gốc từ trên trời, dưới đất và trong nước. Mặc dù nguồn gốc của lý thuyết y học Ayurveda còn chưa chắc chắn, nhưng dược liệu của ngành y khoa này đã phát triển từ khối tri thức về thuốc từ thời Vệ Đà hoặc thậm chí  từ thời tiền sử. 



Bộ Vệ Đà chứa đựng một khối tri thức đồ sộ về y học, giải phẫu học, vết thương, bệnh tật, thầy thuốc, ma quỷ, thuốc, bùa mê và phù chú. Cùng với một hệ thống phức tạp các thần thánh, người theo đạo Hindu cổ đại tin tưởng vào một loạt vô số các ma quỷ gây ra bệnh tật. Do bệnh tật là hậu quả của tội lỗi hoặc do hành động của quỷ thần, cho nên muốn chữa khỏi đòi hỏi sự thú nhận, thần chú, cầu đảo và trừ tà. Các thầy thuốc Vệ Đà soạn các món thuốc thảo dược và bùa chú để chống lại các quỷ thần gây nên bệnh sốt, gãy xương, vết thương và vết cắn có nọc độc. Các phương thuốc và các kỹ thuật mổ xẻ chuyên biệt chỉ có hiệu lực điều trị khi được kết hợp với nghi thức cúng bái phù hợp, nhưng vai trò của thầy pháp, thấy thuốc và mổ xẻ trong chừng mực nào đó không hề giống nhau. Thầy mổ xẻ điều trị các vết thương và vết rắn cắn, múc con mắt bị tổn thương, rút mũi tên, cắt bỏ chi và gắn chân giả cho người bệnh. Nếu những xương sọ được phát hiện tại hai địa điểm khai quật vùng Harappa là đại diện của một truyền thống thất truyền, thì các thầy thuốc ngoại khoa người Ấn cũng đã thực hiện kỹ thuật khoan sọ. 



Khi sàng lọc các luật lệ, công trình kỷ niệm, bia khắc, dụng cụ phẫu thuật, đồ nghệ thuật và các câu chuyện do các nhà du hành, hành hương và quân xâm lược, ta có thể hiểu thêm về cách hành nghề của nền y học và phẫu thuật Ấn Độ. Một nghiên cứu về truyền thống dân gian đương thời và công việc của các thầy thuốc cũng giúp ta hiểu được cách hành nghề thời xa xưa như thế nào. Tuy nhiên, chỉ dẫn trực tiếp nhất về nền y học Ấn Độ thời cổ đại được tìm thấy trong các tác phẩm cổ điển của nền y học Ayurvedic. Những văn bản này là tài liệu cơ bản đối với một nền văn minh trong đó truyền miệng vẫn chiếm vai trò chủ đạo, nhưng do lịch sử của nước Ấn quá phức tạp và đa dạng về văn hóa, nên những văn bản trên phải được coi như là những bức chân dung của người thầy thuốc lý tưởng hơn là một người hành nghề y tiêu biểu.



 





Hình: Kinh Vệ Đà tiếng Phạn được in trên giấy vào thế kỷ 19 (Nguồn: Wikipedia)



 



Học thuyết về năm yếu tố (Pancha Mahabhutas)



Từ Pancha Mahabhuta được tạo thành từ ba từ: 'pancha', 'maha' và 'bhuta'. 'pancha' có nghĩa là năm, 'maha' có nghĩa là tuyệt vời và 'bhuta' có nghĩa là tồn tại. Tất cả các vật thể sống và không sống trong vũ trụ đều được tạo thành từ Panchamahabhuta. Do đó, Panchamahabhuta là năm yếu tố cơ bản chịu trách nhiệm tạo ra vũ trụ, bao gồm cả con người. Yếu tố đầu tiên xuất hiện là Akash (Không gian). Nó mở rộng nhất và ít đồng bộ nhất trong tất cả. Nguyên tố tiếp theo là Vayu (Không khí) rồi đến Agni (Lửa), sau đó đến nguyên tố Jala (Nước) và cuối cùng là nguyên tố Prithvi (Đất) được hình thành. Năm yếu tố tạo thành năm nhận thức giác quan hay Tanmatra - là một từ tiếng Phạn có nghĩa là những yếu tố thô sơ. Năm Tanmatra là Thính giác (Shabda), Xúc giác (Sparsha), Thị giác (Roopa), Vị giác (Rasa) và Khứu giác (Gandha). Những Tanmatra này có liên quan đến từng giác quan.



Không gian (Aakash)



Akash có nghĩa là không gian. Các phẩm chất của nguyên tố Askash bao gồm: ánh sáng, tinh tế và vô lượng và có liên quan đến các hành động như giãn nở, rung động, không kháng cự. Tai là cơ quan cảm giác liên quan đến nguyên tố không gian. Tanmatra của nguyên tố Askash là Thính giác hay Shabda.



Không khí (Vayu)



Yếu tố không khí có liên quan đến chuyển động hoặc cảm giác chuyển động liên tục. Những phẩm chất của nguyên tố gió bao gồm sự nhạy cảm, chuyển động, sự hiện diện mát mẻ và vi tế. Da là cơ quan cảm giác liên quan đến yếu tố Không khí. Tanmatra của yếu tố không khí là Xúc giác hoặc Sparsha.



Ngọn lửa (Agni)



Yếu tố không khí thực hiện các chuyển động và bất cứ khi nào có chuyển động, nó gây ra ma sát và điều này dẫn đến sự hình thành lửa. Các phẩm chất của nguyên tố lửa có liên quan đến các chức năng khác nhau như thâm nhập, tiêu hóa thức ăn, chuyển hóa tư tưởng, trí tuệ và nhận thức về ánh sáng. Tanmatra của nguyên tố lửa là Vision hay Rupa.



Nước (Jala)



Các phẩm chất của yếu tố nước bao gồm tính thanh khoản hoặc tính lưu động. Nước truyền đạt chất lượng quan trọng của ràng buộc – ví dụ: khi chúng ta thêm nước vào đất, thì chỉ khi đó chúng ta mới có thể dễ dàng nhào nặn bùn thành hình dạng mà chúng ta mong muốn như chậu bùn hoặc quả bóng,... Tanmatra của nguyên tố nước là vị giác hay Rasa.



Đất (Pruthvi)



Nguyên tố đất này là rắn, thô, cứng và dày đặc. Yếu tố đất tạo ra hình dạng, hình dạng, cấu trúc và sức mạnh. Ví dụ: răng, móng, xương và cơ. Mũi là giác quan liên quan đến địa đại. Tanmatra của nguyên tố đất là khứu giác hay Gandha.



Sự mất cân bằng panchmahabhoota này tạo ra “tridoshas”. Thể chất của mỗi cá nhân được tạo ra bởi ba doshas này tại thời điểm thụ tinh trong quá trình garbhdharana (khi phôi được hình thành.) Tỷ lệ của ba doshas này được xác định vào thời điểm này và không thay đổi trong suốt cuộc đời của anh ấy/cô ấy. Những doshas này cùng nhau xác định prakruti (tổ chức cơ thể) của chúng ta.



​​​​​​





Nguồn: Pancha Mahabootha - Ojas Ayurveda



 



Học thuyết về ba dạng năng lượng (Tridosha theory)



Một trong những học thuyết cơ bản chính của Ayurveda liên quan đến một phương pháp hiểu biết về sức khỏe và bệnh tật được gọi là Tridosha. Người ta cho rằng Ayurveda là một môn khoa học không chỉ truyền đạt sức khỏe thể chất mà còn cả tinh thần và tâm lý. Theo Triết học, nền tảng hoặc cơ sở của cơ thể, chịu trách nhiệm cho sự hình thành của nó được gọi là Tridoshas.



Khái niệm về Tridoshas này liên quan đến ba chức năng: Vata, Pitta và Kapha - là một học thuyết trung tâm của Ayurveda.“Dosha” nghĩa là “cái mà thay đổi”. Thuật ngữ này cũng được xem là một lỗi, một sai sót, sai lầm hoặc sự vượt qua giới hạn của nhịp điệu vũ trụ. Doshas nghĩa là năng lượng thể chất và tinh thần, tác động đến mọi sinh vật sống. Ba doshas được gọi chung là Tri-doshas, trong đó “tri” nghĩa là ba. Nó bao gồm ba năng lượng sinh học cơ bản, đó là Vata (không gian + khí), Pitta (lửa + nước) và Kapha (nước + đất). 



Doshas chịu trách nhiệm cân bằng nội môi và sức khỏe của chúng sinh. Đồng thời, Vata, Pitta và Kapha được tìm thấy trong từng tế bào, mô và cơ quan. Khi các lực năng lượng này ở trạng thái cân bằng, chúng sinh có tình trạng sức khỏe bình thường và khi chúng bị lệch sẽ sinh ra bệnh tật. 



Vata – Quá trình dị hóa



Dosha này được hình thành bởi sự kết hợp giữa gió và không gian. Đặc điểm cơ bản của Dosha là các chuyển động, có thể là vật chất hoặc tinh thần. Dosha này kiểm soát xung thần kinh. Ngoài ra, Vata thực hiện chức năng chính là kiểm soát hai Dosha khác. Trọng tâm đầu tiên của Dosha là liên tục duy trì sự cân bằng giữa cả ba Dosha. Hơn nữa, Vata có năm Dosha phụ, bao gồm:




  1. Prana Vata được tìm thấy trong đầu và nó kiểm soát các giác quan.

  2. Vyana Vata kiểm soát tất cả các hành động cơ thể và được tìm thấy trong trái tim.

  3. Udana Vata được tìm thấy ở vùng ngực và nó kiểm soát giọng nói cũng như khả năng trí tuệ. 

  4. Samana Vata hiện diện trong dạ dày và nó kiểm soát quá trình tiêu hóa.

  5. Apana Vata kiểm soát tất cả các chất thải qua đường tiết niệu và được tìm thấy ở vùng hậu môn.



Pitta – Quá trình trao đổi chất



Được hình thành bởi sự kết hợp giữa lửa và nước, Pitta Dosha chi phối tất cả các quá trình liên quan đến sự trao đổi chất và những thay đổi (tinh thần và thể chất) xảy ra trong cơ thể. Các chức năng chính được thực hiện bởi Dosha bao gồm tiêu hóa thức ăn và tiếp tục sử dụng nó để tạo ra năng lượng cho cơ thể. Dosha được chia thành năm loại phụ, bao gồm:




  1. Ranjak Pitta tạo ra Rakta hoặc máu và được tìm thấy trong dạ dày.

  2. Bhrajak Pitta kiểm soát sắc tố da và được tìm thấy trong da.

  3. Aalochak Pitta được tìm thấy trong mắt và kiểm soát tầm nhìn.

  4. Sadhak Pitta hiện diện trong tim và nó chi phối các khả năng tâm lý của cơ thể.

  5. Pachak Pitta kiểm soát chức năng tiêu hóa của cơ thể và được tìm thấy ở phần tá tràng của ruột non.



Kapha – Quá trình đồng hóa



Đất và nước cùng nhau tạo nên Kapha. Chức năng quan trọng nhất của Kapha Dosha là cung cấp năng lượng cho tâm trí và cơ thể. Dosha cũng kiểm soát lượng nước trong cơ thể và lấp đầy những bộ phận có ít nước hơn, cho đến cấp độ tế bào. Dosha cũng đóng một chức năng quan trọng ở cấp độ tâm lý, nơi nó được liên kết với những cảm xúc như ghen tị và tình yêu. Kapha được phân loại thành:




  1. Kledak Kapha được tìm thấy trong dạ dày và có tác dụng tiêu hóa thức ăn.

  2. Shleshak Kapha có mặt trong tất cả các khớp của cơ thể và kiểm soát việc bôi trơn các khớp.

  3. Tarpak kapha được tìm thấy trong đầu và kiểm soát trí thông minh.

  4. Bodhak Kapha được tìm thấy trong cơ quan cảm nhận vị giác và chi phối cơ quan đó.

  5. Avalambak Kapha hiện diện trong ngực và nó bôi trơn tim và họng.



 





Nguồn: ThriDosha - Ojas Ayurveda



 



Học thuyết về tạng người (Prakriti and gunas: Sattva, Rajas, Tamas)



Trong triết lý Yoga, mọi vật chất trong vũ trụ đều phát sinh từ chất nền cơ bản gọi là Prakriti. Từ Prakriti tao nhã này, ba guna chính (phẩm chất của năng lượng) xuất hiện, tạo ra các khía cạnh thiết yếu của tất cả tự nhiên – năng lượng, vật chất và ý thức. Ba guna này là tamas (bóng tối và hỗn loạn), rajas (hoạt động và đam mê) và sattva (hiện hữu và hòa hợp).



Guna là một từ tiếng Phạn được dịch là “chất lượng, đặc thù, thuộc tính hoặc xu hướng.” Trong Yoga và Ayurveda, guna là một tattva hoặc một yếu tố của thực tế có thể ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý, cảm xúc và năng lượng của chúng ta. Ba guna được tạo ra như một thành phần thiết yếu của triết học Sankhya nhưng gunas hiện là một khái niệm chính trong hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ. Ba guna được mô tả là liên tục di chuyển và tương tác với nhau, ở trạng thái vui tươi được gọi là maya hoặc ảo ảnh . Mô hình tác động lẫn nhau của các guna có thể xác định những phẩm chất cần thiết của một người nào đó hoặc một cái gì đó, và những mô hình này có thể ảnh hưởng rất nhiều đến con đường và sự tiến bộ của cuộc sống. 



Cả ba guna luôn hiện diện trong mọi sinh vật và vật thể xung quanh chúng ta nhưng khác nhau về số lượng tương đối của chúng. Con người chúng ta có khả năng duy nhất để thay đổi mức độ guna trong cơ thể và tâm trí của chúng ta một cách có ý thức. Các guna không thể tách rời hoặc loại bỏ trong bản thân mỗi người nhưng có thể được hành động một cách có ý thức để khuyến khích sự tăng hoặc giảm của chúng. Guna có thể được tăng hoặc giảm thông qua sự tương tác và ảnh hưởng của các đối tượng bên ngoài, lối sống và suy nghĩ.



Hơn nữa, mỗi người chúng ta có một “sự cân bằng” riêng. Cũng giống như việc trên đời không có hai dấu vân tay hoàn toàn giống nhau, mỗi người có một dạng năng lượng cụ thể, đó là sự kết hợp của các đặc điểm thể chất, tinh thần và cảm xúc riêng biệt mang đặc tính riêng của họ. Điều này đã được xác lập khi con người là một bào thai bởi một yếu tố nhất định sẽ được bảo tồn nguyên vẹn trong suốt cuộc đời của mỗi người. Vì vậy, Ayurveda đã sinh ra khái niệm về tạng người (Prakriti). Có thể hiểu rằng, tạng người là cấu tạo cụ thể và sự cân bằng sinh lý riêng. Mỗi người đều có ba dạng năng lượng - Vata, Pitta, Kapha và ba phẩm chất tâm lý Satwa, Rajas, Tamas với những tỷ lệ riêng biệt và khác nhau. Prakriti sẽ được quyết định bởi sự kết hợp của tinh trùng (Shukra) và noãn (Shonita) tại thời điểm thụ thai. Prakriti của một người cũng được mô tả là chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mẹ của họ, bao gồm môi trường trong tử cung, thức ăn và sinh hoạt hằng ngày trong thời kỳ mang thai của người mẹ. Cấu tạo cơ bản này được cố định tại thời điểm thụ tinh nói chung và không đổi trong suốt cuộc đời của mỗi cá thể. Thức ăn và chế độ sinh hoạt của một người trong suốt cuộc đời của họ có thể là tăng hoặc giảm các dạng năng lượng trong cơ thể.




 






































































































 

Tạng người Vata chiếm ưu thế



Tạng người Pitta chiếm ưu thế



Tạng người Kapha chiếm ưu thế



Khung xương



Hẹp



Trung bình



Rộng 



Sự phát triển cơ bắp



Yếu



Trung bình



Mạnh



Làn da



Khô, dễ nứt nẻ



Mềm mỏng, dễ có nốt ruồi, mụn và tàn nhang



Sáng, min và săn chắc



Tóc



Khô, mỏng, dễ gãy



Dầu, mỏng, bạc sớm



Dày, trơn, khoẻ



Cân nặng



Khó thay đổi



Dễ thay đổi



Dễ béo phì



Chế độ ăn



Ăn nhiều, thói quen ăn uống thường xuyên thay đổi



Ăn và uống nhiều



Ăn ít, thói quen ăn uống ổn định



Vận động



Nhanh, mạnh



Trung bình



Chậm, yếu



Độ mẫn cảm với thời tiết



Mẫn cảm với khí hậu lạnh



Mẫn cảm với khí hậu nóng



Mẫn cảm với cả nóng và lạnh



Sức đề kháng



Kém



Tốt



Rất tốt



Khả năng chuyển hoá các chất độc hại



Trung bình



Nhanh



Chậm 



Giao tiếp



Nói nhiều



Kỹ năng phân tích lời nói tốt, ngôn ngữ sắc bén



Nói ít nhưng khả năng giao tiếp tốt



Sự thích ứng



Thích ứng nhanh và dễ dàng



Tốc độ thích ứng vừa phải,dựa trên niềm tin và sự hiểu biết



Thích ứng chậm



Trí nhớ



Nhớ nhanh nhưng dễ quên



Khả năng nắm bắt và ghi nhớ trung bình



Nhớ chậm nhưng khó quên



Sự lão hoá



Nhanh



Trung bình



Chậm



Các bệnh thường gặp



Rối loạn phát triển,  các bệnh về thần kinh, rối loạn khả năng vận động và lời nói, nhịp tim không ổn định



Viêm loét, rối loạn đông máu, bệnh ngoài da



Béo phì, tiểu đường, xơ vữa động mạch





Bảng: Đặc điểm của các tạng người điển hình. Nguồn: Dey&Pahwa, 2014



Nói chung, mặc dù mỗi chúng ta có tất cả ba dạng năng lượng, hầu hết mỗi người có một hay hai năng lượng chiếm ưu thế. Mỗi người trong chúng ta sẽ có một tỷ lệ độc đáo của ba dạng năng lượng này, chúng tạo nên “tạng người” của chúng ta. Khi bị tác động của vô vàn các yếu tố khác nhau, bị thay đổi về tỷ lệ của các dạng năng lượng trong cơ thể, nó dần trở nên mất cân bằng và sinh ra bệnh tật.



Ngoài học thuyết về các dạng năng lượng và các yếu tố, các học thuyết quan trọng khác được biết đến trong Ayurveda là học thuyết về Ba loại chất cặn bã (Tri Malas) và Hệ thống trao đổi chất (Trayo Dosa Agni). 



Tri Malas là ba loại chất cặn bã được hình thành trong cơ thể do chức năng chuyển hóa và tiêu hóa của cơ thể. Chúng bao gồm Mutra (nước tiểu), Purisa (phân) và Sveda (mồ hôi). Ayurveda giải thích rằng nếu sự cân bằng giữa các dạng năng lượng không được duy trì, các chất thải của cơ thể không được loại bỏ một cách hiệu quả và chúng dẫn đến các biến chứng khác như tiêu chảy, táo bón, hen suyễn, viêm khớp dạng thấp và các biến chứng khác. Nếu Mutra Mala (nước tiểu) không được loại bỏ khỏi cơ thể, nó có thể dẫn đến nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm bàng quang và đau dạ dày. Nếu Sveda Mala không được đào thải khỏi cơ thể, nó có thể dẫn đến các vấn đề kích ứng da và cân bằng chất lỏng không phù hợp. 



Theo học thuyết Trayo Dosa Agni của Ayurveda, tất cả các chức năng trao đổi chất trong cơ thể được gọi là “Agni” (Agni nghĩa là lửa). Có 13 loại Agni trong cơ thể con người và quan trọng nhất là loại chịu trách nhiệm cho quá trình tiêu hóa, được gọi là Jatharagni. Jatharagni rất quan trọng trong việc kiểm soát hệ vi sinh bình thường, chức năng tiêu hóa thích hợp và cung cấp năng lượng cho toàn bộ cơ thể. Bất kỳ sự xáo trộn nào dẫn đến sự cân bằng của nó đều tạo ra sự khó chịu cho đường tiêu hóa và dẫn đến các biến chứng bệnh lý như loét, tiêu chảy và táo bón.



Phương pháp chẩn đoán



Người thầy thuốc nắm được khoa học của sự sống được gọi là vaidya. Thầy thuốc, thuốc, người phụ tá và bệnh nhân là 4 yếu tố quan trọng tạo nên nền y học cổ truyền Ayurveda. Công việc của người thầy thuốc là xác định đúng vai trò của mình và chẩn đoán chính xác căn nguyên của bệnh tật là điểm mấu chốt để điều trị hiệu quả. Đó là một quá trình tôi luyện và rèn dũa sau khi lắng nghe bệnh nhân kể về bệnh sử, thầy thuốc sẽ nghiên cứu sắc diện của bệnh nhân, tìm ra điểm bất thường, những tiếng động bên trong máu, thể dịch và chất thải tiết. Các kỹ năng được thầy thuốc sử dụng để chẩn đoán là sờ, nghe, phát hiện các dấu hiệu bằng cách dùng thuốc để điều trị thử, đánh giá mùi và vị của các chất thải tiết.



Khá thú vị là, chính người thầy thuốc phải nếm các chất thải tiết, nếu các vị ấy không muốn nếm thử thì có thể giao việc này cho học trò của mình nếm thử hay đem cho côn trùng ăn và quan sát phản ứng của chúng. Phải chăng nghiệm pháp này có ý nghĩa chẩn đoán bệnh đái tháo đường ngày nay - nổi danh với tên gọi cổ xưa là “ bệnh nước tiểu mật ong”.



Có thể nói chẩn đoán là một sứ mệnh đầy thách thức đối với các thầy thuốc cổ xưa khi không có có các trang thiết bị hiện đại và cận lâm sàng bổ trợ với có hơn 1000 chứng bệnh được nên trong các y văn cổ xưa. Vị trí danh dự là sốt - vua của mọi loại bệnh trong cơ thể. Khi sốt có tính gián đoạn, thời khoảng giữa hai đỉnh sốt cho ta biết tiên lượng của bệnh. 



Không những vậy, một số thầy thuốc Ayurvedic cũng quan tâm đến kỹ thuật bắt mạch để chẩn đoán bệnh, hơi thở (prana), và kinh lạc (channel) là những quan niệm gợi nhớ đến nền y học cổ truyền Trung Quốc. 



Chính vì vậy, các thầy thuốc giỏi phải đạt được bốn yêu cầu cơ bản về trình độ: kiến thức về lý thuyết, lý luận khúc chiết, có nhiều kinh nghiệm thực hành và kỹ năng: cảm thông và tử tế với mọi bệnh nhân, thầy thuốc dốc lòng đối với những bệnh nhân có thể cứu chữa và luôn giữ một khoảng cách với những bệnh nhân sắp không qua khỏi. Thầy thuốc phải có lòng can đảm, lòng tự tin kiên định, thái độ trầm tĩnh, dụng cụ sắc bén và đôi tay vững vàng để có thể mổ xẻ cứu sống người bệnh.



 



Phương pháp điều trị



Các phương pháp điều trị nhằm chữa lành bệnh tật trong Ayurveda được phân thành 5 nhóm chính, bao gồm: các biện pháp tác động vào bên trong cơ thể, bao gồm shodhana (thải độc) và shamana (các phương pháp được sử dụng để cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua chăm sóc giảm nhẹ); các biện pháp can thiệp từ bên ngoài, bao gồm xông hơi, trị liệu bằng tinh dầu…;phương pháp phẫu thuật, bao gồm cắt bỏ các mô, cơ quan và các phần phát triển có hại cho cơ thể; liệu pháp tinh thần và tâm linh; các biện pháp sử dụng thảo dược, kết hợp các công thức bào chế thảo dược với các kim loại vi lượng khác nhau.



Thí dụ, hạt muồng (senna), lấy từ cây muồng trâu (cassia) được các thầy thuốc Ấn Độ cổ đại sử dụng ít nhất 2000 năm qua với những công dụng tuyệt vời như làm thuốc nhuận tràng, chữa bệnh ngoài da (lác), bệnh ở mắt, ho và các chứng sốt. Hay những bài thuốc cổ truyền trong dân gian có chứa nhựa cây guggul (Commiphora mukul) có chứa một phức hợp có tính năng điều chỉnh nồng độ cholesterol máu.



 





Hình: Quả của cây muồng trâu có hình hạt đậu, rộng 15 – 17mm và dài 8 – 16cm, bên trong chứa khoảng 60 hạt muồng nhỏ. (Nguồn:Cây Muồng Trâu - Công Dụng và Cách Dùng Trị Bệnh Hiệu Quả)





Hình: Hạt muồng (senna) được làm thành xà phòng - một sản phẩm thiên nhiên đến từ tỉnh Bến Tre, Việt Nam. 





Hình: Cây muồng trâu là loài thực vật thân nhỡ, chiều cao trong khoảng 1.5 – 3m và có lá kép lông chim. (Nguồn: Cây Muồng Trâu - Công dụng và Cách dùng trị bệnh hiệu quả)



 



Đến một thời điểm thích hợp trong quá trình điều trị, các biện pháp làm sạch và giảm nhẹ được sử dụng để giúp loại bỏ sự mất cân bằng sau khi đã tìm ra nguyên nhân của sự mất cân bằng đó. Khi chữa trị, các thầy thuốc Ayurveda có thể đưa ra khuyến nghị về việc thay đổi lối sống; bắt đầu và duy trì một chế độ dinh dưỡng hợp lý và các loại thảo mộc. Trong một số trường hợp, người bệnh cần được “làm sạch cơ thể”, được gọi là Panchakarma, để giúp cơ thể tự loại bỏ các độc tố tích tụ trong người để thu được nhiều lợi ích hơn từ các biện pháp điều trị.



 



Phương pháp phòng bệnh



Các văn bản về nền y học Ayurveda đã ghi chép lại rằng phụ nữ trung niên dễ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp hơn nam giới. Và chứng khó tiêu hoá được cho là nguyên nhân chính của viêm khớp dạng thấp.  Những tạng người có năng lượng Vata nổi trội trong cơ thể thường có cảm giác thèm ăn nhưng hệ tiêu hoá lại không được ổn định và được ghi nhận là dễ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp hơn những tạng người khác. Chính vì vậy, phương pháp điều trị đầu tiên của các thầy thuốc Ayurveda là lời khuyên về chăm sóc hệ tiêu hoá và điều trị chứng khó tiêu hoá - được kê cho những người bệnh mắc viêm khớp dạng thấp. Không những vậy, Ayurveda cũng đưa ra các chế độ ăn uống và lối sống đặc biệt cần áp dụng cho những người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ sau sinh như một biện pháp khá hữu ích để ngăn chặn sự khởi phát của bệnh viêm khớp dạng thấp. Đây là ví dụ điển hình cho việc ứng dụng lý thuyết cân bằng của Ayurveda để phòng và chữa bệnh. Hơn thế nữa, phương pháp này đã cho thấy những kết quả khả quan khi áp dụng các phương pháp phòng và điều trị của Ayurveda vào nền y học hiện đại. Kết quả nghiên cứu của Krishna (2011) trên số liệu điều trị Ayurveda của 290 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đã chỉ ra rằng, các phương pháp của nền y học cổ đại Ấn Độ có hiệu quả trong nhóm đầu tiên đã hoàn thành điều trị. Ngay cả những người bệnh bị hạn chế chức năng nghiêm trọng cũng có hiệu quả đáng kể. Mặc dù không có nhóm đối chứng, kết quả này cũng đủ khả thi để đảm bảo nghiên cứu thêm về phương pháp điều trị Ayurveda cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trong các thử nghiệm đối chứng.



Hơn thế nữa, đã có nhiều bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa các khái niệm về Năng lượng và Tạng người của Ayurveda với các vấn đề của nền y học hiện đại ngày nay, đó là: hệ trao đổi chất, các bệnh mạn tính và các kiểu gen khác nhau. Nhiều công trình nghiên cứu về Ayurveda đã được thực hiện để khám phá mối liên hệ giữa Tạng Người với hệ thống trao đổi chất, các bệnh mạn tính, kiểu gen của con người và đi đến kết luận rằng có những bệnh thường xảy ra ở một vài kiểu gen nhất định. Những khám phá như vậy mở ra những cơ hội áp dụng Học thuyết Prakriti bằng xét nghiệm di truyền học và ngăn ngừa các bệnh mạn tính khác nhau thông qua việc áp dụng sớm chế độ ăn uống và sinh hoạt phù hợp cho trẻ em, đặc biệt là các trẻ sơ sinh  mắc các bệnh về rối loạn về  chuyển hoá như rối loạn chuyển hoá acid amin, acid béo, acid hữu cơ, carbohydrate, rối loạn dự trữ tiêu thể: bệnh Pompe, bệnh Gaucher,...Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa ngay từ khi còn nhỏ có thể mang lại cho những đứa trẻ đó một cuộc sống tích cực hơn, khoẻ mạnh và ít bệnh tật hơn. Vì vậy, nghiên cứu sâu về Ayurveda đặc biệt là về Prakriti, có thể tạo ra những cơ hội về “cá nhân hoá y tế dự phòng” - điều đó khó có thể tồn tại trong các hệ thống y tế khác, đặc biệt là trong hệ thống y học Phương Tây.  



 



Kết luận



Tóm lại, mỗi nền y học trên thế giới, đều mang những vẻ đẹp riêng biệt, đồng thời, cũng có sự giao thoa lẫn nhau. Vì vậy, Ayurveda không chỉ là một môn “khoa học về sự sống” mà còn là chứa đựng những triết lý về mọi khía cạnh khác nhau trong cuộc sống xung quanh chúng ta, trong đó nó nhấn mạnh về sự hài hoà, cân bằng trong cơ thể, tâm trí và tinh thần, của các yếu tố và các dạng năng lượng trong cơ thể. Nó nhận ra chúng ta là duy nhất, mỗi người có những cách xử lý khác nhau  trong cuộc sống, với những tính cách không trùng lặp. Thông qua cái nhìn sâu sắc, sự hiểu biết về cuộc sống, Ayurveda là tinh hoa của nền y học Ấn Độ nói riêng và trong kho tàng nền văn minh y học nhân loại nói chung. 



 



Tài liệu tham khảo




  1. CONCEPT OF TRIDOSHA THEORY : A CRITICAL REVIEW

  2. Triết lý về sự cân bằng trong y học Ayurveda của Ấn Độ

  3. 3 GUNAS CHÍNH CỦA TỰ NHIÊN (SATTVA, RAJAS VÀ TAMAS) - Heloyoga

  4. Ayurveda | Johns Hopkins Medicine.

  5. Nền y học cổ truyền Ấn Độ - AyurVeda

  6. Lịch sử Ấn Độ

  7. The Principles of Surgical Practice: Sushruta Samhita and its Importance to Present Day Surgery

  8. Lịch sử Y học- Lois N. Magner, BS.Võ Văn Lượng dịch


aaaaaaaa

3300BC: Bài học trong bộ thuốc thời tiền sử của người băng

10/10/2023
906 lượt xem

 3300BC - Bài học trong bộ thuốc thời tiền sử của Người băng



Nguyễn Thị Hiền



Mở đầu



Ngày 19 tháng 9 năm 1991, hai nhà leo núi người Đức, Helmut và Erika Simon tìm thấy Người băng Oetzi ở Oetztal Alps, khu vực biên giới giữa Áo và Ý. Thi thể đó được chính quyền Áo đưa tới Innbruck, nơi niên đại thực sự của nó được khám phá. Người băng đã đưa đến cho các nhà khảo cổ học và các nhà khoa học khác một bức tranh sống động về những cái ăn, cái mặc và hành trang mà con người mang theo trong những chuyến đi vào dãy núi Alps 5.300 năm trước, vào cuối thời kỳ đồ đá và đầu thời kỳ đồ đồng ở Châu Âu, những cuộc khảo sát sau đó đã chỉ ra rằng thi thể đó đã nằm sâu vài mét bên trong lãnh thổ Ý. Hiện nay, Người băng đã được trưng bày tại tỉnh Nam Tirol, trong Bảo tàng khảo cổ học ở thành phố Bilzano, Ý.



Những phát hiện độc đáo từ Người Băng



Một nhà nhân chủng học đã báo cáo rằng Người băng cũng đã cung cấp một cái nhìn hiếm hoi về y học thời tiền sử, bao gồm cả việc sử dụng rõ ràng thuốc nhuận tràng và kháng sinh tự nhiên.



Nhưng các nhà vi sinh học người Áo đã xác định một trong các vật dụng mà Oetzi mang theo là quả của nấm bạch dương, Piptoporus betulinus, phổ biến ở vùng núi cao và các môi trường lạnh khác. Nếu ăn phải loại nấm này, nó có thể gây ra những đợt tiêu chảy ngắn. Nó cũng chứa các loại dầu độc hại đối với một số vi khuẩn ký sinh, do đó hoạt động như một dạng kháng sinh tự nhiên.



Khám nghiệm tử thi đã tiết lộ lý do vì sao loại nấm này lại nằm trong số các dược phẩm trên cuộc hành trình của Người băng. Các nhà khoa học Anh đã tìm thấy trong đại tràng của người đàn ông trứng của một loại giun tóc ký sinh, Trichuris trichiura. Loại ký sinh trùng này có thể gây tiêu chảy và đau bụng cấp tính. Nó cũng có thể gây thiếu máu, điều này có thể giải thích bằng chứng về hàm lượng sắt thấp trong một số cơ của xác ướp.





Hình ảnh Người băng đang được trưng bày tại tỉnh Nam Tirol, trong Bảo tàng khảo cổ học ở thành phố Bilzano, Ý.



Những bài học được rút ra



Trong số hiện tại của tạp chí y khoa Lancet của Anh, Tiến sĩ Luigi Capasso, nhà nhân chủng học tại Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia ở Chieti, Ý, đã xem xét các bằng chứng và kết luận: ''Việc phát hiện ra loại nấm cho thấy Người băng đã biết về ký sinh trùng đường ruột của mình và điều trị chống lại chúng với liều lượng Piptoporus betulinus đã được đo lường.''



Như Tiến sĩ Capasso đã chỉ ra nấm bạch dương có chứa nhựa độc giúp tấn công ký sinh trùng như trùng roi và một hợp chất khác, axit agaric, là một loại thuốc nhuận tràng mạnh. Các đặc tính kết hợp của loại nấm ít nhất có thể mang lại sự giảm đau tạm thời bằng cách tẩy sạch gần như tất cả giun và trứng của chúng trong ruột của Người băng.



Tiến sĩ Capasso đã viết rằng nấm bạch dương có lẽ là phương thuốc duy nhất có sẵn ở châu Âu trước khi xuất hiện loại dầu chenopod độc hại hơn nhiều từ châu Mỹ. Chenopod là một loại cây bụi thấp được tìm thấy trong môi trường khô cằn ở Nam Mỹ. Hiệu quả của dầu chenopod như một loại thuốc đã được tăng lên bằng cách thêm một loại thuốc nhuận tràng mạnh để tẩy giun và trứng của chúng.



Trong cuốn "Người đàn ông trong băng" xuất bản năm 1994 (Sách Harmony), Tiến sĩ Konrad Spindler, nhà khảo cổ học tại Đại học Innsbruck ở Áo, người đứng đầu cuộc điều tra ban đầu về xác ướp, đã ghi nhận bằng chứng đầu tiên cho thấy Người băng có thể đã mang theo một số loại thuốc tự nhiên. Tiến sĩ Spindler viết: “Tất cả y học dân gian đều có nguồn gốc từ thời tiền sử”. "Trải qua hàng trăm, hàng nghìn năm, các phương thuốc đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngành công nghiệp dược phẩm hiện đại đã thường xuyên phân tích các thành phần hoạt tính của các loại thuốc truyền thống và sử dụng chúng cho đến ngày nay, nơi mà các dạng tổng hợp không thể sản xuất được. Nhìn dưới góc độ này, Người băng với bộ thuốc du lịch khiêm tốn nhưng không nghi ngờ gì là hiệu quả của anh ta, không phải là điều quá xa vời với chúng ta."Tiến sĩ John F. Leslie, một nhà di truyền học nấm tại Đại học Bang Kansas, biên tập viên của tạp chí Vi sinh Môi trường và Ứng dụng, đã gọi mối liên hệ được báo cáo giữa nấm và ký sinh trùng đường ruột của Người băng là "một phát hiện thú vị và hấp dẫn." Ông cho biết các chất độc có hiệu quả như thuốc được sản xuất bởi nấm để bảo vệ bản thân và nguồn thức ăn của chúng trong cây. Tiến sĩ Michael G. Rinaldi, một nhà nấm học lâm sàng tại Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Texas ở San Antonio, cho biết ông muốn xem thêm bằng chứng ủng hộ suy luận rằng Người băng đang điều trị ký sinh trùng bằng nấm. Nếu điều đó được chứng minh là đúng, anh ấy nói, "Điều đó chỉ cho thấy rằng từ thời xa xưa, con người khi họ bị bệnh sẽ cố gắng bất cứ điều gì có thể để làm cho nó biến mất, ngay cả khi họ không bao giờ biết tại sao nó lại khiến họ cảm thấy như vậy tốt hơn.



 



Tài liệu tham khảo



https://www.nytimes.com/1998/12/08/science/lessons-in-iceman-s-prehistoric-medicine-kit.html



 



Tác phẩm này là tài sản trí tuệ của tác giả và công ty Pivie, bất kỳ hành vi sao chép, sao lưu hoặc phân phối sẽ bị xem là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và có thể phải bị xử lý theo luật pháp!



 


aaaaaaaa
Hỗ trợ khách hàng
Các chuyên viên tư vấn của chúng tôi luôn sẵn sàng giúp bạn. Xin vui lòng liên hệ một trong các số dưới đây để chúng tôi có thể hỗ trợ bạn:

Chuyên viên CSKH - Pivie

0941269911 cskh@pivie.com.vn

Sẵn sàng hỗ trợ qua

Chuyên viên CSKH - Pivie
Biểu mẫu gửi yêu cầu
Hãy cho chúng tôi biết mong muốn của bạn. Chúng tôi sẽ liên hệ lại cho bạn ngay lập tức.