NIÊN ĐẠI 3000 NĂM TCN
AYURVEDA - SỰ “CÂN BẰNG” GIỮA TRIẾT LÝ VÀ Y HỌC CỔ TRUYỀN ẤN ĐỘ
Nguyễn Lâm Phương Phương
Mở đầu
Có thể nói, Ấn Độ là một tiểu lục địa đông đúc dân cư, là cái nôi của nhiều nền tôn giáo rực rỡ, là nơi giao thoa của nhiều sắc tộc, ngôn ngữ và văn hoá. Chính vì vậy, các nhà sử học nhận định rằng những truyền thống khoa học và y học phát triển tại Ấn Độ rất phức tạp, phong phú và khác hẳn với các truyền thống y học châu Âu về nhiều mặt cơ bản. Xuất phát từ bên trong sau đó vượt ra bên ngoài biên giới của khối tri thức thần thoại và các trận chiến mang đậm tính sử thi của các vị thần, người chinh phục và giai cấp, y học Ấn Độ đã hình thành qua ba giai đoạn rõ rệt: thời tiền sử, thời Vệ Đà và thời Ayurvedic.
Định nghĩa về Ayurveda
Ayurveda hay còn được gọi Ayurvedic Medicine là một trong những nền Y học cổ truyền lâu đời nhất trên thế giới. Thuật ngữ “Ayurveda” bắt nguồn từ tiếng Phạn, “Ayur” có nghĩa là “cuộc sống hay trường thọ”, “Veda” có nghĩa là “khoa học hay tri thức”. Vì vậy, Ayurveda nghĩa là “khoa học của cuộc sống”. Theo quan niệm của người Ấn Độ, Ayurveda chính là kiến thức, sự hiểu biết về sức khỏe và hạnh phúc trong đời sống hằng ngày, nói cách khác đây là một ngành khoa học cổ đại của người Ấn Độ về y học dựa trên ý tưởng bệnh tật là do sự mất cân bằng hay sức khỏe tinh thần bị ảnh hưởng. Ayurveda khuyến khích các biện pháp can thiệp lối sống và liệu pháp để lấy lại sự cân bằng giữa cơ thể, tâm trí, tinh thần và môi trường vì họ tin rằng chính sự cân bằng này giúp ngăn ngừa bệnh tật, đem lại một cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh hơn.
Nguồn gốc lịch sử
Ghi chép lịch sử đầu tiên về Ayurveda được tìm thấy trong một quyển kinh của người Aryan có tên là Veda (Vệ-đà), người Aryan di trú đến vùng Trung Á vào khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Vì vậy, tại đây đã xuất hiện nhiều các ngôi trường y khoa cổ xưa tại nhiều thành phố khác nhau. Ở các trường y khoa này, nội khoa và ngoại khoa đồng thời phát triển một cách độc lập với nhau. Nguồn gốc của Ayurveda cũng được tìm thấy trong Atharvaveda, trong đó có 114 bài thánh ca và những câu thần chú được mô tả như là phương pháp chữa trị huyền diệu cho bệnh tật . Ngoài ra, còn có các ghi chép huyền thoại khác nhau về nguồn gốc của Ayurveda, ví dụ, theo thần thoại đạo Hindu, Brahma - người thầy đầu tiên của vũ trụ, là tác giả của Ayurveda, là một bản trường ca gồm một trăm ngàn bài tụng ca và là cội nguồn của mọi kiến thức liên quan đến thuốc và y học. Hiền giả thần thánh Dhanvantari, người được sinh ra từ vũ trụ đại dương đã mang theo một lọ thuốc thần kỳ giúp các vị thần bất tử, đã mang khối tri thức Ayurvedic dạy cho nhiều lớp trí giả trước khi được viết ra thành chữ. Người ta cho rằng những văn bản cổ xưa còn sót đến ngày nay chỉ là cái bóng của kinh Ayurveda đã mất vốn do đấng Brahma soạn ra.
Hình: Người Aryan ở Ladakh. (Nguồn: Tới Ladakh gặp gỡ những Aryan thuần huyết cuối cùng | DoanhnhanPlus.vn)
Ảnh hưởng văn hóa Vệ Đà
Trong lúc không thể xác định được chính xác được ai là tác giả cũng như thời điểm soạn ra kinh Vệ Đà, thì người ta cho rằng Độc thư Vệ Đà (RigVeda) đại diện cho các tài liệu của giai đoạn từ năm 4500 đến 2000 trước CN và Atharvaveda có lẽ bao gồm các tài liệu được soạn ra trong giai đoạn từ năm 1500 đến 1000 trước CN. Trong các lời tụng ca và thần thoại Vệ Đà, thần thánh và thầy thuốc chiến đấu chống lại các thế lực ma quỷ và cử hành các nghi thức có tác dụng như các phương thuốc thần bí chống lại bệnh tật và dịch bệnh. Tất cả các thứ thuốc, kể cả trên một ngàn cây cỏ làm thuốc được coi là có nguồn gốc từ trên trời, dưới đất và trong nước. Mặc dù nguồn gốc của lý thuyết y học Ayurveda còn chưa chắc chắn, nhưng dược liệu của ngành y khoa này đã phát triển từ khối tri thức về thuốc từ thời Vệ Đà hoặc thậm chí từ thời tiền sử.
Bộ Vệ Đà chứa đựng một khối tri thức đồ sộ về y học, giải phẫu học, vết thương, bệnh tật, thầy thuốc, ma quỷ, thuốc, bùa mê và phù chú. Cùng với một hệ thống phức tạp các thần thánh, người theo đạo Hindu cổ đại tin tưởng vào một loạt vô số các ma quỷ gây ra bệnh tật. Do bệnh tật là hậu quả của tội lỗi hoặc do hành động của quỷ thần, cho nên muốn chữa khỏi đòi hỏi sự thú nhận, thần chú, cầu đảo và trừ tà. Các thầy thuốc Vệ Đà soạn các món thuốc thảo dược và bùa chú để chống lại các quỷ thần gây nên bệnh sốt, gãy xương, vết thương và vết cắn có nọc độc. Các phương thuốc và các kỹ thuật mổ xẻ chuyên biệt chỉ có hiệu lực điều trị khi được kết hợp với nghi thức cúng bái phù hợp, nhưng vai trò của thầy pháp, thấy thuốc và mổ xẻ trong chừng mực nào đó không hề giống nhau. Thầy mổ xẻ điều trị các vết thương và vết rắn cắn, múc con mắt bị tổn thương, rút mũi tên, cắt bỏ chi và gắn chân giả cho người bệnh. Nếu những xương sọ được phát hiện tại hai địa điểm khai quật vùng Harappa là đại diện của một truyền thống thất truyền, thì các thầy thuốc ngoại khoa người Ấn cũng đã thực hiện kỹ thuật khoan sọ.
Khi sàng lọc các luật lệ, công trình kỷ niệm, bia khắc, dụng cụ phẫu thuật, đồ nghệ thuật và các câu chuyện do các nhà du hành, hành hương và quân xâm lược, ta có thể hiểu thêm về cách hành nghề của nền y học và phẫu thuật Ấn Độ. Một nghiên cứu về truyền thống dân gian đương thời và công việc của các thầy thuốc cũng giúp ta hiểu được cách hành nghề thời xa xưa như thế nào. Tuy nhiên, chỉ dẫn trực tiếp nhất về nền y học Ấn Độ thời cổ đại được tìm thấy trong các tác phẩm cổ điển của nền y học Ayurvedic. Những văn bản này là tài liệu cơ bản đối với một nền văn minh trong đó truyền miệng vẫn chiếm vai trò chủ đạo, nhưng do lịch sử của nước Ấn quá phức tạp và đa dạng về văn hóa, nên những văn bản trên phải được coi như là những bức chân dung của người thầy thuốc lý tưởng hơn là một người hành nghề y tiêu biểu.
Hình: Kinh Vệ Đà tiếng Phạn được in trên giấy vào thế kỷ 19 (Nguồn: Wikipedia)
Học thuyết về năm yếu tố (Pancha Mahabhutas)
Từ Pancha Mahabhuta được tạo thành từ ba từ: 'pancha', 'maha' và 'bhuta'. 'pancha' có nghĩa là năm, 'maha' có nghĩa là tuyệt vời và 'bhuta' có nghĩa là tồn tại. Tất cả các vật thể sống và không sống trong vũ trụ đều được tạo thành từ Panchamahabhuta. Do đó, Panchamahabhuta là năm yếu tố cơ bản chịu trách nhiệm tạo ra vũ trụ, bao gồm cả con người. Yếu tố đầu tiên xuất hiện là Akash (Không gian). Nó mở rộng nhất và ít đồng bộ nhất trong tất cả. Nguyên tố tiếp theo là Vayu (Không khí) rồi đến Agni (Lửa), sau đó đến nguyên tố Jala (Nước) và cuối cùng là nguyên tố Prithvi (Đất) được hình thành. Năm yếu tố tạo thành năm nhận thức giác quan hay Tanmatra - là một từ tiếng Phạn có nghĩa là những yếu tố thô sơ. Năm Tanmatra là Thính giác (Shabda), Xúc giác (Sparsha), Thị giác (Roopa), Vị giác (Rasa) và Khứu giác (Gandha). Những Tanmatra này có liên quan đến từng giác quan.
Không gian (Aakash)
Akash có nghĩa là không gian. Các phẩm chất của nguyên tố Askash bao gồm: ánh sáng, tinh tế và vô lượng và có liên quan đến các hành động như giãn nở, rung động, không kháng cự. Tai là cơ quan cảm giác liên quan đến nguyên tố không gian. Tanmatra của nguyên tố Askash là Thính giác hay Shabda.
Không khí (Vayu)
Yếu tố không khí có liên quan đến chuyển động hoặc cảm giác chuyển động liên tục. Những phẩm chất của nguyên tố gió bao gồm sự nhạy cảm, chuyển động, sự hiện diện mát mẻ và vi tế. Da là cơ quan cảm giác liên quan đến yếu tố Không khí. Tanmatra của yếu tố không khí là Xúc giác hoặc Sparsha.
Ngọn lửa (Agni)
Yếu tố không khí thực hiện các chuyển động và bất cứ khi nào có chuyển động, nó gây ra ma sát và điều này dẫn đến sự hình thành lửa. Các phẩm chất của nguyên tố lửa có liên quan đến các chức năng khác nhau như thâm nhập, tiêu hóa thức ăn, chuyển hóa tư tưởng, trí tuệ và nhận thức về ánh sáng. Tanmatra của nguyên tố lửa là Vision hay Rupa.
Nước (Jala)
Các phẩm chất của yếu tố nước bao gồm tính thanh khoản hoặc tính lưu động. Nước truyền đạt chất lượng quan trọng của ràng buộc – ví dụ: khi chúng ta thêm nước vào đất, thì chỉ khi đó chúng ta mới có thể dễ dàng nhào nặn bùn thành hình dạng mà chúng ta mong muốn như chậu bùn hoặc quả bóng,... Tanmatra của nguyên tố nước là vị giác hay Rasa.
Đất (Pruthvi)
Nguyên tố đất này là rắn, thô, cứng và dày đặc. Yếu tố đất tạo ra hình dạng, hình dạng, cấu trúc và sức mạnh. Ví dụ: răng, móng, xương và cơ. Mũi là giác quan liên quan đến địa đại. Tanmatra của nguyên tố đất là khứu giác hay Gandha.
Sự mất cân bằng panchmahabhoota này tạo ra “tridoshas”. Thể chất của mỗi cá nhân được tạo ra bởi ba doshas này tại thời điểm thụ tinh trong quá trình garbhdharana (khi phôi được hình thành.) Tỷ lệ của ba doshas này được xác định vào thời điểm này và không thay đổi trong suốt cuộc đời của anh ấy/cô ấy. Những doshas này cùng nhau xác định prakruti (tổ chức cơ thể) của chúng ta.
Nguồn: Pancha Mahabootha - Ojas Ayurveda
Học thuyết về ba dạng năng lượng (Tridosha theory)
Một trong những học thuyết cơ bản chính của Ayurveda liên quan đến một phương pháp hiểu biết về sức khỏe và bệnh tật được gọi là Tridosha. Người ta cho rằng Ayurveda là một môn khoa học không chỉ truyền đạt sức khỏe thể chất mà còn cả tinh thần và tâm lý. Theo Triết học, nền tảng hoặc cơ sở của cơ thể, chịu trách nhiệm cho sự hình thành của nó được gọi là Tridoshas.
Khái niệm về Tridoshas này liên quan đến ba chức năng: Vata, Pitta và Kapha - là một học thuyết trung tâm của Ayurveda.“Dosha” nghĩa là “cái mà thay đổi”. Thuật ngữ này cũng được xem là một lỗi, một sai sót, sai lầm hoặc sự vượt qua giới hạn của nhịp điệu vũ trụ. Doshas nghĩa là năng lượng thể chất và tinh thần, tác động đến mọi sinh vật sống. Ba doshas được gọi chung là Tri-doshas, trong đó “tri” nghĩa là ba. Nó bao gồm ba năng lượng sinh học cơ bản, đó là Vata (không gian + khí), Pitta (lửa + nước) và Kapha (nước + đất).
Doshas chịu trách nhiệm cân bằng nội môi và sức khỏe của chúng sinh. Đồng thời, Vata, Pitta và Kapha được tìm thấy trong từng tế bào, mô và cơ quan. Khi các lực năng lượng này ở trạng thái cân bằng, chúng sinh có tình trạng sức khỏe bình thường và khi chúng bị lệch sẽ sinh ra bệnh tật.
Vata – Quá trình dị hóa
Dosha này được hình thành bởi sự kết hợp giữa gió và không gian. Đặc điểm cơ bản của Dosha là các chuyển động, có thể là vật chất hoặc tinh thần. Dosha này kiểm soát xung thần kinh. Ngoài ra, Vata thực hiện chức năng chính là kiểm soát hai Dosha khác. Trọng tâm đầu tiên của Dosha là liên tục duy trì sự cân bằng giữa cả ba Dosha. Hơn nữa, Vata có năm Dosha phụ, bao gồm:
- Prana Vata được tìm thấy trong đầu và nó kiểm soát các giác quan.
- Vyana Vata kiểm soát tất cả các hành động cơ thể và được tìm thấy trong trái tim.
- Udana Vata được tìm thấy ở vùng ngực và nó kiểm soát giọng nói cũng như khả năng trí tuệ.
- Samana Vata hiện diện trong dạ dày và nó kiểm soát quá trình tiêu hóa.
- Apana Vata kiểm soát tất cả các chất thải qua đường tiết niệu và được tìm thấy ở vùng hậu môn.
Pitta – Quá trình trao đổi chất
Được hình thành bởi sự kết hợp giữa lửa và nước, Pitta Dosha chi phối tất cả các quá trình liên quan đến sự trao đổi chất và những thay đổi (tinh thần và thể chất) xảy ra trong cơ thể. Các chức năng chính được thực hiện bởi Dosha bao gồm tiêu hóa thức ăn và tiếp tục sử dụng nó để tạo ra năng lượng cho cơ thể. Dosha được chia thành năm loại phụ, bao gồm:
- Ranjak Pitta tạo ra Rakta hoặc máu và được tìm thấy trong dạ dày.
- Bhrajak Pitta kiểm soát sắc tố da và được tìm thấy trong da.
- Aalochak Pitta được tìm thấy trong mắt và kiểm soát tầm nhìn.
- Sadhak Pitta hiện diện trong tim và nó chi phối các khả năng tâm lý của cơ thể.
- Pachak Pitta kiểm soát chức năng tiêu hóa của cơ thể và được tìm thấy ở phần tá tràng của ruột non.
Kapha – Quá trình đồng hóa
Đất và nước cùng nhau tạo nên Kapha. Chức năng quan trọng nhất của Kapha Dosha là cung cấp năng lượng cho tâm trí và cơ thể. Dosha cũng kiểm soát lượng nước trong cơ thể và lấp đầy những bộ phận có ít nước hơn, cho đến cấp độ tế bào. Dosha cũng đóng một chức năng quan trọng ở cấp độ tâm lý, nơi nó được liên kết với những cảm xúc như ghen tị và tình yêu. Kapha được phân loại thành:
- Kledak Kapha được tìm thấy trong dạ dày và có tác dụng tiêu hóa thức ăn.
- Shleshak Kapha có mặt trong tất cả các khớp của cơ thể và kiểm soát việc bôi trơn các khớp.
- Tarpak kapha được tìm thấy trong đầu và kiểm soát trí thông minh.
- Bodhak Kapha được tìm thấy trong cơ quan cảm nhận vị giác và chi phối cơ quan đó.
- Avalambak Kapha hiện diện trong ngực và nó bôi trơn tim và họng.
Nguồn: ThriDosha - Ojas Ayurveda
Học thuyết về tạng người (Prakriti and gunas: Sattva, Rajas, Tamas)
Trong triết lý Yoga, mọi vật chất trong vũ trụ đều phát sinh từ chất nền cơ bản gọi là Prakriti. Từ Prakriti tao nhã này, ba guna chính (phẩm chất của năng lượng) xuất hiện, tạo ra các khía cạnh thiết yếu của tất cả tự nhiên – năng lượng, vật chất và ý thức. Ba guna này là tamas (bóng tối và hỗn loạn), rajas (hoạt động và đam mê) và sattva (hiện hữu và hòa hợp).
Guna là một từ tiếng Phạn được dịch là “chất lượng, đặc thù, thuộc tính hoặc xu hướng.” Trong Yoga và Ayurveda, guna là một tattva hoặc một yếu tố của thực tế có thể ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý, cảm xúc và năng lượng của chúng ta. Ba guna được tạo ra như một thành phần thiết yếu của triết học Sankhya nhưng gunas hiện là một khái niệm chính trong hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ. Ba guna được mô tả là liên tục di chuyển và tương tác với nhau, ở trạng thái vui tươi được gọi là maya hoặc ảo ảnh . Mô hình tác động lẫn nhau của các guna có thể xác định những phẩm chất cần thiết của một người nào đó hoặc một cái gì đó, và những mô hình này có thể ảnh hưởng rất nhiều đến con đường và sự tiến bộ của cuộc sống.
Cả ba guna luôn hiện diện trong mọi sinh vật và vật thể xung quanh chúng ta nhưng khác nhau về số lượng tương đối của chúng. Con người chúng ta có khả năng duy nhất để thay đổi mức độ guna trong cơ thể và tâm trí của chúng ta một cách có ý thức. Các guna không thể tách rời hoặc loại bỏ trong bản thân mỗi người nhưng có thể được hành động một cách có ý thức để khuyến khích sự tăng hoặc giảm của chúng. Guna có thể được tăng hoặc giảm thông qua sự tương tác và ảnh hưởng của các đối tượng bên ngoài, lối sống và suy nghĩ.
Hơn nữa, mỗi người chúng ta có một “sự cân bằng” riêng. Cũng giống như việc trên đời không có hai dấu vân tay hoàn toàn giống nhau, mỗi người có một dạng năng lượng cụ thể, đó là sự kết hợp của các đặc điểm thể chất, tinh thần và cảm xúc riêng biệt mang đặc tính riêng của họ. Điều này đã được xác lập khi con người là một bào thai bởi một yếu tố nhất định sẽ được bảo tồn nguyên vẹn trong suốt cuộc đời của mỗi người. Vì vậy, Ayurveda đã sinh ra khái niệm về tạng người (Prakriti). Có thể hiểu rằng, tạng người là cấu tạo cụ thể và sự cân bằng sinh lý riêng. Mỗi người đều có ba dạng năng lượng - Vata, Pitta, Kapha và ba phẩm chất tâm lý Satwa, Rajas, Tamas với những tỷ lệ riêng biệt và khác nhau. Prakriti sẽ được quyết định bởi sự kết hợp của tinh trùng (Shukra) và noãn (Shonita) tại thời điểm thụ thai. Prakriti của một người cũng được mô tả là chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mẹ của họ, bao gồm môi trường trong tử cung, thức ăn và sinh hoạt hằng ngày trong thời kỳ mang thai của người mẹ. Cấu tạo cơ bản này được cố định tại thời điểm thụ tinh nói chung và không đổi trong suốt cuộc đời của mỗi cá thể. Thức ăn và chế độ sinh hoạt của một người trong suốt cuộc đời của họ có thể là tăng hoặc giảm các dạng năng lượng trong cơ thể.
|
Tạng người Vata chiếm ưu thế
|
Tạng người Pitta chiếm ưu thế
|
Tạng người Kapha chiếm ưu thế
|
Khung xương
|
Hẹp
|
Trung bình
|
Rộng
|
Sự phát triển cơ bắp
|
Yếu
|
Trung bình
|
Mạnh
|
Làn da
|
Khô, dễ nứt nẻ
|
Mềm mỏng, dễ có nốt ruồi, mụn và tàn nhang
|
Sáng, min và săn chắc
|
Tóc
|
Khô, mỏng, dễ gãy
|
Dầu, mỏng, bạc sớm
|
Dày, trơn, khoẻ
|
Cân nặng
|
Khó thay đổi
|
Dễ thay đổi
|
Dễ béo phì
|
Chế độ ăn
|
Ăn nhiều, thói quen ăn uống thường xuyên thay đổi
|
Ăn và uống nhiều
|
Ăn ít, thói quen ăn uống ổn định
|
Vận động
|
Nhanh, mạnh
|
Trung bình
|
Chậm, yếu
|
Độ mẫn cảm với thời tiết
|
Mẫn cảm với khí hậu lạnh
|
Mẫn cảm với khí hậu nóng
|
Mẫn cảm với cả nóng và lạnh
|
Sức đề kháng
|
Kém
|
Tốt
|
Rất tốt
|
Khả năng chuyển hoá các chất độc hại
|
Trung bình
|
Nhanh
|
Chậm
|
Giao tiếp
|
Nói nhiều
|
Kỹ năng phân tích lời nói tốt, ngôn ngữ sắc bén
|
Nói ít nhưng khả năng giao tiếp tốt
|
Sự thích ứng
|
Thích ứng nhanh và dễ dàng
|
Tốc độ thích ứng vừa phải,dựa trên niềm tin và sự hiểu biết
|
Thích ứng chậm
|
Trí nhớ
|
Nhớ nhanh nhưng dễ quên
|
Khả năng nắm bắt và ghi nhớ trung bình
|
Nhớ chậm nhưng khó quên
|
Sự lão hoá
|
Nhanh
|
Trung bình
|
Chậm
|
Các bệnh thường gặp
|
Rối loạn phát triển, các bệnh về thần kinh, rối loạn khả năng vận động và lời nói, nhịp tim không ổn định
|
Viêm loét, rối loạn đông máu, bệnh ngoài da
|
Béo phì, tiểu đường, xơ vữa động mạch
|
Bảng: Đặc điểm của các tạng người điển hình. Nguồn: Dey&Pahwa, 2014
Nói chung, mặc dù mỗi chúng ta có tất cả ba dạng năng lượng, hầu hết mỗi người có một hay hai năng lượng chiếm ưu thế. Mỗi người trong chúng ta sẽ có một tỷ lệ độc đáo của ba dạng năng lượng này, chúng tạo nên “tạng người” của chúng ta. Khi bị tác động của vô vàn các yếu tố khác nhau, bị thay đổi về tỷ lệ của các dạng năng lượng trong cơ thể, nó dần trở nên mất cân bằng và sinh ra bệnh tật.
Ngoài học thuyết về các dạng năng lượng và các yếu tố, các học thuyết quan trọng khác được biết đến trong Ayurveda là học thuyết về Ba loại chất cặn bã (Tri Malas) và Hệ thống trao đổi chất (Trayo Dosa Agni).
Tri Malas là ba loại chất cặn bã được hình thành trong cơ thể do chức năng chuyển hóa và tiêu hóa của cơ thể. Chúng bao gồm Mutra (nước tiểu), Purisa (phân) và Sveda (mồ hôi). Ayurveda giải thích rằng nếu sự cân bằng giữa các dạng năng lượng không được duy trì, các chất thải của cơ thể không được loại bỏ một cách hiệu quả và chúng dẫn đến các biến chứng khác như tiêu chảy, táo bón, hen suyễn, viêm khớp dạng thấp và các biến chứng khác. Nếu Mutra Mala (nước tiểu) không được loại bỏ khỏi cơ thể, nó có thể dẫn đến nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm bàng quang và đau dạ dày. Nếu Sveda Mala không được đào thải khỏi cơ thể, nó có thể dẫn đến các vấn đề kích ứng da và cân bằng chất lỏng không phù hợp.
Theo học thuyết Trayo Dosa Agni của Ayurveda, tất cả các chức năng trao đổi chất trong cơ thể được gọi là “Agni” (Agni nghĩa là lửa). Có 13 loại Agni trong cơ thể con người và quan trọng nhất là loại chịu trách nhiệm cho quá trình tiêu hóa, được gọi là Jatharagni. Jatharagni rất quan trọng trong việc kiểm soát hệ vi sinh bình thường, chức năng tiêu hóa thích hợp và cung cấp năng lượng cho toàn bộ cơ thể. Bất kỳ sự xáo trộn nào dẫn đến sự cân bằng của nó đều tạo ra sự khó chịu cho đường tiêu hóa và dẫn đến các biến chứng bệnh lý như loét, tiêu chảy và táo bón.
Phương pháp chẩn đoán
Người thầy thuốc nắm được khoa học của sự sống được gọi là vaidya. Thầy thuốc, thuốc, người phụ tá và bệnh nhân là 4 yếu tố quan trọng tạo nên nền y học cổ truyền Ayurveda. Công việc của người thầy thuốc là xác định đúng vai trò của mình và chẩn đoán chính xác căn nguyên của bệnh tật là điểm mấu chốt để điều trị hiệu quả. Đó là một quá trình tôi luyện và rèn dũa sau khi lắng nghe bệnh nhân kể về bệnh sử, thầy thuốc sẽ nghiên cứu sắc diện của bệnh nhân, tìm ra điểm bất thường, những tiếng động bên trong máu, thể dịch và chất thải tiết. Các kỹ năng được thầy thuốc sử dụng để chẩn đoán là sờ, nghe, phát hiện các dấu hiệu bằng cách dùng thuốc để điều trị thử, đánh giá mùi và vị của các chất thải tiết.
Khá thú vị là, chính người thầy thuốc phải nếm các chất thải tiết, nếu các vị ấy không muốn nếm thử thì có thể giao việc này cho học trò của mình nếm thử hay đem cho côn trùng ăn và quan sát phản ứng của chúng. Phải chăng nghiệm pháp này có ý nghĩa chẩn đoán bệnh đái tháo đường ngày nay - nổi danh với tên gọi cổ xưa là “ bệnh nước tiểu mật ong”.
Có thể nói chẩn đoán là một sứ mệnh đầy thách thức đối với các thầy thuốc cổ xưa khi không có có các trang thiết bị hiện đại và cận lâm sàng bổ trợ với có hơn 1000 chứng bệnh được nên trong các y văn cổ xưa. Vị trí danh dự là sốt - vua của mọi loại bệnh trong cơ thể. Khi sốt có tính gián đoạn, thời khoảng giữa hai đỉnh sốt cho ta biết tiên lượng của bệnh.
Không những vậy, một số thầy thuốc Ayurvedic cũng quan tâm đến kỹ thuật bắt mạch để chẩn đoán bệnh, hơi thở (prana), và kinh lạc (channel) là những quan niệm gợi nhớ đến nền y học cổ truyền Trung Quốc.
Chính vì vậy, các thầy thuốc giỏi phải đạt được bốn yêu cầu cơ bản về trình độ: kiến thức về lý thuyết, lý luận khúc chiết, có nhiều kinh nghiệm thực hành và kỹ năng: cảm thông và tử tế với mọi bệnh nhân, thầy thuốc dốc lòng đối với những bệnh nhân có thể cứu chữa và luôn giữ một khoảng cách với những bệnh nhân sắp không qua khỏi. Thầy thuốc phải có lòng can đảm, lòng tự tin kiên định, thái độ trầm tĩnh, dụng cụ sắc bén và đôi tay vững vàng để có thể mổ xẻ cứu sống người bệnh.
Phương pháp điều trị
Các phương pháp điều trị nhằm chữa lành bệnh tật trong Ayurveda được phân thành 5 nhóm chính, bao gồm: các biện pháp tác động vào bên trong cơ thể, bao gồm shodhana (thải độc) và shamana (các phương pháp được sử dụng để cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua chăm sóc giảm nhẹ); các biện pháp can thiệp từ bên ngoài, bao gồm xông hơi, trị liệu bằng tinh dầu…;phương pháp phẫu thuật, bao gồm cắt bỏ các mô, cơ quan và các phần phát triển có hại cho cơ thể; liệu pháp tinh thần và tâm linh; các biện pháp sử dụng thảo dược, kết hợp các công thức bào chế thảo dược với các kim loại vi lượng khác nhau.
Thí dụ, hạt muồng (senna), lấy từ cây muồng trâu (cassia) được các thầy thuốc Ấn Độ cổ đại sử dụng ít nhất 2000 năm qua với những công dụng tuyệt vời như làm thuốc nhuận tràng, chữa bệnh ngoài da (lác), bệnh ở mắt, ho và các chứng sốt. Hay những bài thuốc cổ truyền trong dân gian có chứa nhựa cây guggul (Commiphora mukul) có chứa một phức hợp có tính năng điều chỉnh nồng độ cholesterol máu.
Hình: Quả của cây muồng trâu có hình hạt đậu, rộng 15 – 17mm và dài 8 – 16cm, bên trong chứa khoảng 60 hạt muồng nhỏ. (Nguồn:Cây Muồng Trâu - Công Dụng và Cách Dùng Trị Bệnh Hiệu Quả)
Hình: Hạt muồng (senna) được làm thành xà phòng - một sản phẩm thiên nhiên đến từ tỉnh Bến Tre, Việt Nam.
Hình: Cây muồng trâu là loài thực vật thân nhỡ, chiều cao trong khoảng 1.5 – 3m và có lá kép lông chim. (Nguồn: Cây Muồng Trâu - Công dụng và Cách dùng trị bệnh hiệu quả)
Đến một thời điểm thích hợp trong quá trình điều trị, các biện pháp làm sạch và giảm nhẹ được sử dụng để giúp loại bỏ sự mất cân bằng sau khi đã tìm ra nguyên nhân của sự mất cân bằng đó. Khi chữa trị, các thầy thuốc Ayurveda có thể đưa ra khuyến nghị về việc thay đổi lối sống; bắt đầu và duy trì một chế độ dinh dưỡng hợp lý và các loại thảo mộc. Trong một số trường hợp, người bệnh cần được “làm sạch cơ thể”, được gọi là Panchakarma, để giúp cơ thể tự loại bỏ các độc tố tích tụ trong người để thu được nhiều lợi ích hơn từ các biện pháp điều trị.
Phương pháp phòng bệnh
Các văn bản về nền y học Ayurveda đã ghi chép lại rằng phụ nữ trung niên dễ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp hơn nam giới. Và chứng khó tiêu hoá được cho là nguyên nhân chính của viêm khớp dạng thấp. Những tạng người có năng lượng Vata nổi trội trong cơ thể thường có cảm giác thèm ăn nhưng hệ tiêu hoá lại không được ổn định và được ghi nhận là dễ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp hơn những tạng người khác. Chính vì vậy, phương pháp điều trị đầu tiên của các thầy thuốc Ayurveda là lời khuyên về chăm sóc hệ tiêu hoá và điều trị chứng khó tiêu hoá - được kê cho những người bệnh mắc viêm khớp dạng thấp. Không những vậy, Ayurveda cũng đưa ra các chế độ ăn uống và lối sống đặc biệt cần áp dụng cho những người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ sau sinh như một biện pháp khá hữu ích để ngăn chặn sự khởi phát của bệnh viêm khớp dạng thấp. Đây là ví dụ điển hình cho việc ứng dụng lý thuyết cân bằng của Ayurveda để phòng và chữa bệnh. Hơn thế nữa, phương pháp này đã cho thấy những kết quả khả quan khi áp dụng các phương pháp phòng và điều trị của Ayurveda vào nền y học hiện đại. Kết quả nghiên cứu của Krishna (2011) trên số liệu điều trị Ayurveda của 290 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đã chỉ ra rằng, các phương pháp của nền y học cổ đại Ấn Độ có hiệu quả trong nhóm đầu tiên đã hoàn thành điều trị. Ngay cả những người bệnh bị hạn chế chức năng nghiêm trọng cũng có hiệu quả đáng kể. Mặc dù không có nhóm đối chứng, kết quả này cũng đủ khả thi để đảm bảo nghiên cứu thêm về phương pháp điều trị Ayurveda cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trong các thử nghiệm đối chứng.
Hơn thế nữa, đã có nhiều bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa các khái niệm về Năng lượng và Tạng người của Ayurveda với các vấn đề của nền y học hiện đại ngày nay, đó là: hệ trao đổi chất, các bệnh mạn tính và các kiểu gen khác nhau. Nhiều công trình nghiên cứu về Ayurveda đã được thực hiện để khám phá mối liên hệ giữa Tạng Người với hệ thống trao đổi chất, các bệnh mạn tính, kiểu gen của con người và đi đến kết luận rằng có những bệnh thường xảy ra ở một vài kiểu gen nhất định. Những khám phá như vậy mở ra những cơ hội áp dụng Học thuyết Prakriti bằng xét nghiệm di truyền học và ngăn ngừa các bệnh mạn tính khác nhau thông qua việc áp dụng sớm chế độ ăn uống và sinh hoạt phù hợp cho trẻ em, đặc biệt là các trẻ sơ sinh mắc các bệnh về rối loạn về chuyển hoá như rối loạn chuyển hoá acid amin, acid béo, acid hữu cơ, carbohydrate, rối loạn dự trữ tiêu thể: bệnh Pompe, bệnh Gaucher,...Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa ngay từ khi còn nhỏ có thể mang lại cho những đứa trẻ đó một cuộc sống tích cực hơn, khoẻ mạnh và ít bệnh tật hơn. Vì vậy, nghiên cứu sâu về Ayurveda đặc biệt là về Prakriti, có thể tạo ra những cơ hội về “cá nhân hoá y tế dự phòng” - điều đó khó có thể tồn tại trong các hệ thống y tế khác, đặc biệt là trong hệ thống y học Phương Tây.
Kết luận
Tóm lại, mỗi nền y học trên thế giới, đều mang những vẻ đẹp riêng biệt, đồng thời, cũng có sự giao thoa lẫn nhau. Vì vậy, Ayurveda không chỉ là một môn “khoa học về sự sống” mà còn là chứa đựng những triết lý về mọi khía cạnh khác nhau trong cuộc sống xung quanh chúng ta, trong đó nó nhấn mạnh về sự hài hoà, cân bằng trong cơ thể, tâm trí và tinh thần, của các yếu tố và các dạng năng lượng trong cơ thể. Nó nhận ra chúng ta là duy nhất, mỗi người có những cách xử lý khác nhau trong cuộc sống, với những tính cách không trùng lặp. Thông qua cái nhìn sâu sắc, sự hiểu biết về cuộc sống, Ayurveda là tinh hoa của nền y học Ấn Độ nói riêng và trong kho tàng nền văn minh y học nhân loại nói chung.
Tài liệu tham khảo
- CONCEPT OF TRIDOSHA THEORY : A CRITICAL REVIEW
- Triết lý về sự cân bằng trong y học Ayurveda của Ấn Độ
- 3 GUNAS CHÍNH CỦA TỰ NHIÊN (SATTVA, RAJAS VÀ TAMAS) - Heloyoga
- Ayurveda | Johns Hopkins Medicine.
- Nền y học cổ truyền Ấn Độ - AyurVeda
- Lịch sử Ấn Độ
- The Principles of Surgical Practice: Sushruta Samhita and its Importance to Present Day Surgery
- Lịch sử Y học- Lois N. Magner, BS.Võ Văn Lượng dịch